PHÁP
BẢO ĐÀN KINH

LỤC TỔ HUỆ NĂNG
Bến Giác
từ xưa vốn sẵn đ̣,
Rừng Thiền
vi diệu khó t́m ḍ.
Hành nhân chưa
có người đưa lối,
Pháp Bảo Đàn
Kinh
hướng dẫn cho
-- *** --
Đức Phật Tổ thương đời tứ khổ,
Pháp vô vi đắc
độ hằng sa.
Giác thuyền vào
cơi ta bà,
Thiền tông Bát
Nhă Ma Ha giáo truyền..
Tâm trần thế đảo
điên nhân ngă,
Nẻo vô thường
nghiệp quả triền miên.
Chất chồng vay
trả tiền khiên,
Tháng năm tích
lũy nào yên thân phàm.
Vô minh khởi
muôn ngàn tội ác,
Sắc tướng sanh
tánh giác lu mờ.
Trầm luân nào rơ
bến bờ,
Thuyền Từ Bát
Nhă nương nhờ thoát ra.
Ngộ Chánh Pháp
lướt qua bỉ ngạn,
Huệ tâm khai
chơn tánh hiện ra.
Gội nhuần nguồn
nước Ma Ha,
Sáu căn bất
nhiễm ngự ṭa bảo liên.
Gắng tu học tông
Thiền đốn ngộ,
Nơi Tào Khê Lục
Tổ giáo truyền.
Đạt Ma chỉ rơ cơ
huyền,
Sớm mau tỉnh
thức, đoạn duyên ái hà.
Đang thời buổi
tinh hoa Phật giáo,
Diễn dịch sai,
hành đạo lạc lầm.
Không tin Phật
tại nơi tâm,
Măi lo vọng
ngoại kiếm tầm đâu đâu!
Đuốc vô vi năm
châu rực tỏa,
Pháp Ma Ha Bát
Nhă tông thiền.
Dứt ác nghiệp,
hết ưu phiền,
Giữ ḷng thanh
tịnh, chơn truyền bửu kinh.
Bát chánh đạo
liễu minh vô thượng,
Thoát mê đồ
nghiệp chướng tiêu vong.
Tu chánh pháp,
học Nam tông,
Soi đèn trí huệ
suốt thông đạo mầu.
Ánh thiền đăng
từ lâu sáng tỏ,
Pháp Bửu Đàn Lục
Tổ độ nhân.
Sớm mau rời dứt
duyên trần,
Không sanh,
chẳng diệt là chân Niết Bàn.
Xuân Ất Dậu – 03/2005
Dịch Giả:
Tu sĩ Thái Hoà
và Cư sĩ Hồ Minh Châu
Kính Cẩn.
TỰA
Đạo pháp rất vi diệu, không thể bàn giải tận tường, có
quên lời mới mong đạt lư và hiểu được ư nghĩa cao siêu,
mầu nhiệm. Nên khi Đức Thế Tôn thuyết pháp tại hội Linh
Sơn, trước tháp Đa Tử, Ngài phân đôi tọa cụ ¹ bảo Tôn giả
Ca Diếp ngồi bên, tay Ngài cầm cành hoa đưa trước đại
chúng, như ngầm chỉ mối diệu Đạo sẽ được truyền, như dùng
lửa chuyền lửa, dùng tâm ấn tâm.
Đạo ở Tây Vực truyền đến đức Bồ Đề Đạt Ma là Tổ thứ 28,
Ngài từ Ấn Độ mang theo qua phương Đông "chỉ thẳng tâm
người, thấy tánh thành Phật" hoằng khai giáo pháp tại
xứ này. Đại sư Huệ Khả là vị thứ nhứt nghe giảng liền hiểu
ngay, lạy Tổ sư Bồ Đề ba lạy thọ Y. Tổ khen Đại Sư hiểu
tường tận như thấm nhập vào xương tủy và khiến tiếp nối
ngôi Tổ, khai xiển chánh tông. Truyền đến Đại sư Hoằng
Nhẫn, tức đức Huỳnh Mai, là đời thứ tư.²
Trong số hơn 700 cao tăng, môn đồ của Ngũ Tổ Huỳnh
Mai, duy có Huệ Năng, tức cư sĩ Phụ Thung ³ chỉ làm một
bài kệ mà được truyền Y, nối ngôi Tổ, đời thứ 6 - kể từ Tổ
Đạt Ma - nhưng Tổ Huệ Năng phải ẩn lánh hơn 15 năm ở
phương Nam trước khi chánh thức hoằng dương đạo pháp.
Ngày nọ, nhân dịp hai vị tăng ở chùa Pháp Tánh, Quảng
Châu, biện luận về "lá phướn động hay gió động",
Huệ Năng khai thị Chánh Pháp nhăn tạng,⁴
Niết Bàn diệu tâm
cho Ấn Tông. Từ đó cư sĩ mới thế phát và đăng đàn thuyết
pháp môn Đông Sơn, ứng đúng theo sám kư của đức Bạt Đà La.
Thứ sử Vi Cừ, nhờ thiền sư Pháp Hải chép lời thuyết pháp
của Tổ Huệ Năng, lập thành Kinh Pháp Bảo Đàn. Tổ ban đầu ở
Ngũ Dương, sau đến Tào Khê, thuyết pháp 37 năm, rưới cam
lộ pháp vị khắp nơi.⁵
Các vị nhập thánh, siêu phàm nhiều không kể xiết.
-------
1.- Chiếc nệm để trải ngồi.
2.- Kể theo hệ thống Trung Hoa
3.- Cư sĩ giă gạo
4.- Phép truyền tâm ấn đăc biệt của Thiền tông.
5.- Cam lộ là nước có chất ngọt. Được xem như phép báu
của Phật - Pháp vị.
Về hạng người thấu triệt tâm tông của Phật, thành bực đại
tri thức, có lưu danh trong quyển Truyền Đăng Lục. Riêng
hai vị thiền sư Nam Nhạc và Thanh Nguyên, nhờ theo phụng
sự Tổ Huệ Năng lâu năm, nên được truyền diệu pháp. Mă Tổ
và Thạch Đầu, hai vị sư này trí huệ sáng suốt, được diệu
huyền thông đạt, đều nhờ hai vị thiền sư Nam Nhạc và Thanh
Nguyên truyền dạy.
C̣n thêm các phái: Lâm Tế, Vi Ngưỡng, Tào Động, Vân Môn,
Pháp Nhăn, lộng nhiên xuất hiện, đạo đức siêu quần, pháp
môn quảng đại. Các vị này đều phấn chí hoằng dương giáo
pháp, dày công d́u dắt chúng sanh. Giáo pháp mà 5 phái kể
trên truyền bá, đều phát xuất từ Đàn Kinh.
Đàn Kinh
lời giản dị, nghĩa phong phú, lư rơ ràng trong sáng, gồm
đầy đủ vô lượng pháp môn của chư Phật, mỗi mỗi pháp môn,
đầy đủ vô lượng diệu nghĩa, mỗi mỗi diệu nghĩa, phát huy
vô lượng diệu lư của chư Phật, tức là diệu pháp Chơn
không của đức Di Lặc và thần thông biến hóa của đức
Phổ Hiền. Nếu ai đạt được diệu pháp này, tức đồng bực với
Thiện Tài đồng tử ¹. Nếu trong một niệm tưởng mà công đức
viên măn, th́ được chứng quả như đức Phổ Hiền Bồ Tát, đồng
hàng với chư Phật.
Tiếc v́ Đàn Kinh bị người đời sau tóm lược quá
nhiều, nên chẳng thấy được tông chỉ đại toàn của Lục Tổ.
Đức Dị tôi lúc ấu niên thường xem bản xưa, sau này trải
hơn 30 năm đi khắp nơi t́m kiếm, măi lúc gần đây, nhờ một
vị thượng nhơn, nên nhận được toàn văn, đem khắc bản giữ
nơi thiền am của tôi, ở nước Ngô, để cùng các bậc thắng sĩ
² xử dụng.
Nguyện cầu khi chư vị khai mở quyển kinh này ra xem, liền
được trực nhập đại viên giác hải,³ nối huệ mạng của Phật
Tổ Như Lai muôn đời không dứt, được vậy mới thỏa măn chí
nguyện của tôi.
Đời Nguyên, năm thứ 27 Canh Dần, (1294) ngày Trung Xuân đề
tựa.
Cổ Duân Tỳ Kheo Đức Dị
soạn.
------
1.- Một vị đồng tử theo học đạo với các Thánh. Xin đọc
kinh Hoa Nghiêm.
2.- Bực tu học cao thâm
3.- Giác ngộ hoàn toàn - Biển Giác.
Bài Khen Ngợi Kinh Pháp Bảo Đàn Lục Tổ Đại Sư
--
*** --
Tán thán là lời ca tụng, tóm tắt phần mở đầu kinh. Nội
dung Kinh Pháp Bảo Đàn là nơi mà Lục Tổ Huệ Năng, một bực
chí nhơn, tuyên dương cái tâm.
Vậy th́ tâm là ǵ? Chính là tâm vi diệu do Phật truyền
lại. Lớn lao thay tâm ấy, từ khởi thủy vẫn luôn thanh
tịnh. Dù bực Thánh hay phàm, u hay hiển, ai ai cũng có tâm
nầy.
Ở cương vị Thánh tất sáng, ở địa vị phàm th́ tối. Tối do
biến đổi, được trở lại liền sáng. Biến đổi hay trở lại tuy
khác nhau, nhưng tâm vi diệu vẫn một.
Ban sơ Đức Phật Thích Ca đem tâm này truyền cho họ Đại
Quy, từ họ Đại Quy truyền lần tới đời thứ 33, là Đại Giám,
tức thụy hiệu của đức Lục Tổ. Thế rồi, Đại Giám tiếp tục
giáo truyền, ngày càng thêm thạnh hành. Nếu bàn đến cái
tâm th́ thật nhiêu khê. Cho nên, tên gọi tuy giống, nhưng
thực chất lại khác. V́ vậy, dầu có nhiều nghĩa, tâm vẫn
một. Nào là tâm
(tim)
máu thịt, tâm duyên lự, tâm tập khởi, tâm kiên thật ...
C̣n luận về tâm sở của tâm th́ nhiều vô số. Chẳng hạn tâm
chơn như, tâm sinh diệt, tâm phiền năo, tâm bồ đề... như
các kinh đă phân loại, không thể kể xiết. V́ vậy, mới bảo
nghĩa tuy nhiều, nhưng tâm chỉ một. Về nghĩa, có giác ngộ,
có bất giác. C̣n tâm, có tâm chơn thật, tâm hư vọng. Đó là
do phân tích tâm chơn như mà ra. Ở đây, kinh Pháp Bảo Đàn,
đức Lục Tổ giảng cái tâm về phương diện dụng, tức giác
ngộ; về phương diện thể, là chơn thật.
Ngày xưa, khi Thánh nhơn sắp ẩn ḿnh, dạy Quy Thị yếu lư
truyền pháp ở ngoài giáo điển, bởi v́ người đời vướng mắc
vào văn tự mà quên trở về nguồn gốc. Do đó, muốn người đời
sau dựa vào gốc để làm thẳng ngọn, nên kinh Niết Bàn chép:
"Ta có chánh pháp vô thượng đă phó chúc cho Ma Ha Ca
Diếp".
Đạo trời nhằm dung dị, đạo của đất lấy đơn giản, đạo của
Thánh nhơn ở cốt yếu. Cốt yếu nghĩa là cực kỳ vi diệu. V́
đạo của Thánh nhơn quư chỗ cốt yếu, nên có thể làm khuôn
mẫu cho cả pháp giới, chỗ tụ hội cho vô lượng nghĩa lư,
bánh xe kiên cố cho Đại thừa.
Kinh Pháp Hoa há chẳng dạy: "Nên biết diệu pháp này là
bí yếu của chư Phật". Kinh Hoa Nghiêm há chẳng chép: "Dùng
phương tiện nhỏ nhưng được giác ngộ nhanh chóng". V́
dựa vào chỗ cốt yếu nên đạo của Thánh nhơn thành tựu lớn
lao. Bởi vậy, cương lĩnh của kinh Pháp Bảo Đàn tôn vinh
tâm yếu. Tâm hoặc sáng, hoặc tối, hoặc không, hoặc linh,
hoặc tịch, hoặc tỉnh. Thế th́, tâm có h́nh tướng, hay
không h́nh tướng?
Gọi là một vật cho nên nó biến hóa thành muôn vật. Gọi
muôn vật, nên nó thống nhứt thành một vật. Nhưng một vật
biến ra muôn vật, muôn vật gồm lại một vật. Đó gọi là điều
có thể nghĩ bàn, c̣n điều không thể nghĩ, cũng không thể
nào bàn.
Thiên hạ gọi huyền giải
(âm thầm hiểu)
gọi thần hội
(tự nhiên khế hợp),
gọi tuyệt đăi
(dứt bặt so sánh),
gọi mặc thể
(lặng lẽ thấu triệt),
gọi minh thông
(mặc nhiên thông suốt)...
Cứ một mặt bỏ hết, loại trừ, loại trừ rồi loại trừ, th́
cũng có thể đạt đến chỗ tinh vi. Đến được chỗ đó, hiển
nhiên phù hợp với bực chí nhơn. Cho nên khó ai lường được.
Suy rộng ra, nếu không dấn thân, th́ không thể nào đạt
được.
T́m hiểu rồi suy nghiệm không có ǵ mà không thỏa đáng.
Giá như kiến tánh, sự thấy rất gần gũi với chơn tâm; giá
như tu tâm, chỗ đạt được rất chơn chánh; giá như sùng
thượng đức hạnh, biện biệt sai lầm tất chơn vọng dễ hiển
hiện; giá như xuất thế, Phật đạo chóng thành; giá như cứu
đời, trần lao dễ dứt. Đó chính tôn chỉ của đức Lục Tổ, nên
kinh Pháp Bảo Đàn lưu hành được thiên hạ khắp nơi vui mừng
tiếp nhận.
Trong kinh dạy "tức tâm tức Phật"
(tâm đó chính là Phật).
Hạng người thiển cận không biết tự lượng sức ḿnh, dùng
cái len gảy đào đất, cho rằng đất cạn, nh́n trời qua chỗ
mái nhà dột tưởng rằng trời nhỏ. Sự thật trời đất há như
vậy sao? Hầu như trăm nhà
(chúng sanh)
ai cũng nghĩ ḿnh đạt được chơn tâm, kỳ thật đâu có đúng.
C̣n bực chí nhơn đă thông suốt, quán triệt, phù hợp với
tinh thần của kinh điển, nên điều này thấy rơ.
Chí nhơn biến mà thông, nhưng nếu không dùng văn tự khó
diễn đạt được chơn tâm. Cho nên giải rơ ràng, có cơ sở, có
nghĩa lư; nói một cách bí mật th́ không đầu, không đuôi.
Những bực căn cơ bén nhạy mới đạt đến chỗ sâu xa, hàng căn
cơ chậm lụt chỉ hiểu đến chỗ thấp cạn. Như vậy há có thể
nghĩ được ư! Có thể bàn được ư! Khó được rốt ráo v́ đó là
giáo lư viên đốn, giáo lư tối thượng thừa, thiền định
thanh tịnh của đức Như Lai, chánh tông của Bồ tát tạng. Đó
là điều các luận sư gọi huyền học, chẳng rơ ràng lắm sao!
Thiên hạ gọi là tông môn, há chẳng đúng lắm sao!
Kinh Pháp Bảo Đàn chép: "Định, Tuệ là gốc, tức đầu mối
để đi đến đạo. Định, có nghĩa tịnh, Tuệ là sáng. Sáng dùng
để quán, tịnh dùng để an. An được tâm mới có thể lănh hội
được bổn thể của tâm. Quán rơ đạo mới có thể giảng về đạo".
Nhứt hạnh tam muội là tướng viên dung của pháp giới. Muôn
điều thiện tuy sai khác, nhưng chỉ bao hàm trong một hạnh
mà thôi. Lấy vô tướng làm thể là trân trọng tịnh giới; lấy
vô niệm làm tông, là tôn vinh thiền định lấy vô trụ làm
gốc, là sùng thượng trí tuệ. Giới, định, huệ là con đường
trọng yếu đi đến Tam thừa. Diệu tâm là cơ sở vững chắc cho
giới, định, huệ. Dùng một diệu tâm này mà dung thông cả ba
pháp, nên gọi là Đại
(lớn).
Dùng giới vô tướng tu hành mới mau đạt đến chánh giác.
C̣n 4 thệ nguyện lớn là: nguyện độ: độ khổ đau; nguyện
đoạn: đoạn tập khí; nguyện học: học đạo lư; nguyện thành:
thành tịch diệt. Diệt mà không diệt ǵ cả, nên không có ǵ
không đoạn trừ. Đạo mà không có chi là lư đạo, th́ không
có ǵ không cứu độ.
Vô tướng sám là sám hối cái không thể sám. Tam quy giới
tức quy về một. V́ là một, nên Tam Bảo xuất hiện. Giảng Ma
Ha Bát Nhă là giải đến chỗ chí trung của tâm. Bát Nhă là
phương tiện của Thánh nhơn, là đại trí của Thánh nhơn. Cho
nên gọi là tịch, là minh, là quyền, là thật. Thiên hạ dùng
tịch để dứt các điều ác. Thiên hạ dùng minh có thể kết tụ
mọi điều thiện. Thiên hạ dùng quyền biến để khuếch trương
thế hữu vi. Thiên hạ dùng chơn thật, để mở rộng pháp vô
vi. Ôi! cùng cực thay Bát Nhă!
Đạo của Thánh nhơn nếu không có Bát Nhă không thể làm sáng
tỏ, không thể nào thành tựu. Công việc của thiên hạ nếu
không có Bát Nhă, th́ không thích hợp, không thỏa đáng.
Bực Chí nhơn dùng Bát Nhă chấn chỉnh tự tâm th́ được viên
măn.
Pháp của đức Lục Tổ v́ hàng thượng căn mà giảng mới thích
hợp. Vật nhỏ dùng vào việc lớn không thể nào đảm đương
được; vật lớn trao cho người nhỏ là có lỗi.
Từ xưa đến nay âm thầm truyền trao, phân phó là ư nghĩa
của bí mật. Bí mật không phải không nói mà chứng ngộ một
cách âm thầm. Đó là bí mật chơn chánh.
Những người không hiểu lư này sinh tâm hủy báng th́ trăm
đời ngàn kiếp sẽ đoạn tuyệt hột giống Phật tánh. Nhằm nhắc
nhở người đời đừng quên tâm ḿnh, đó là yếu chỉ vô cùng to
lớn của kinh Pháp Bảo Đàn: Gốc là chánh, vết rất rơ, nhân
thật chơn, quả viên dung. Những bực Thánh đời trước, các
vị Thánh đời sau căn cứ vào đó để phát khởi, dùng đó chỉ
dạy, nhân đó trở về, thật bao la không bờ bến! Tựa hồ sự
trôi chảy của sông rộng, như sự thông suốt của không gian,
sáng soi của nhựt nguyệt, vô ngại của h́nh bóng, trật tự
của tiến hóa. Diệu mà đạt được th́ gọi là gốc; suy để ứng
dụng gọi là dấu; dùng khái niệm không phải từ ban sơ để
làm đầu mối, gọi là nhân, dùng biểu tượng không cần thành
tựu vẫn thành tựu gọi là quả. Quả không khác với nhân, là
chánh quả. Nhân không khác với quả, gọi là chánh nhân, dấu
ắt chiếu cố đến gốc, là đại dụng. Gốc ắt chiêm nghiệm đến
dấu, gọi Đại thừa. Thừa là khái niệm, Thánh nhơn dùng ví
dụ cho đạo.
Nhằm đến công dụng nên Thánh nhơn bắt đầu dạy bảo. Ôi! Đạo
của Thánh nhơn không ǵ hơn tâm ḿnh. Sự dạy bảo của Thánh
nhơn không ǵ hơn tu. Chuẩn bị tinh thần dấn thân vào đạo
không ǵ hơn nhứt tướng. Phép chỉ quán dựa vào việc thiện
để hoàn thành công đức không ǵ hơn nhứt hạnh tam muội. Hỗ
trợ cho tất cả giới luật không ǵ hơn vô tướng. Hoàn chỉnh
tất cả Thiền định không ǵ hơn vô niệm. Thông suốt tất cả
trí không ǵ hơn vô trụ. Sinh thiện diệt ác không ǵ hơn
giới vô tướng. Dốc ḷng v́ đạo, bồi đắp cho đức không ǵ
hơn 4 thệ nguyện lớn. Khéo quán xét lỗi lầm không ǵ hơn
sám hối vô tướng. Làm cho đạo được chơn chánh không ǵ hơn
giới Tam quy. Làm ngay ngắn đại thể, bồi đắp cho đại dụng
không ǵ hơn Đại Bát Nhă. Phát khởi niềm tin, dốc ḷng với
đại đạo không ǵ hơn Đại chí. Cùng lư tận tánh trong thiên
hạ không ǵ hơn lặng lẽ trao truyền. Muốn tâm không vướng
lỗi không ǵ hơn tránh nói xấu lẫn nhau.
Lấy Định Tuệ làm nhân tố khởi đầu đó là nền tảng của đạo.
Dùng Nhứt hạnh tam muội tu tập là cơ sở của công đức. Dùng
vô niệm làm tôn chỉ nên thành tựu giải thoát. Lấy vô trụ
làm gốc liền đạt trí tuệ. Thấu triệt lư vô tướng được
dung thông với pháp thân. Dùng giới vô tướng để tŕ giới,
là giới cao tột. Đem 4 nguyện lớn để lập nguyện, tức
nguyện cùng cực. Sám hối bằng phương pháp vô sám là sám
hối rốt ráo. Giới tam quy tức giới trở về đường chánh. Ma
ha trí tuệ là phạm trù to lớn của thánh phàm. V́ hạng
người thượng thượng căn mà tuyên thuyết, là cách thuyết
pháp trực tiếp. Trao truyền bằng im lặng là cách truyền
pháp ưu việt, nhằm mục đích ngăn ngừa những kẻ hủy báng.
Phàm diệu tâm th́ không phải do tu mà thành, không phải
chứng mà sáng. V́ nó vốn đă thành, đă sáng sẵn vậy. V́ mê
mất nguồn sáng nên phải làm sáng lại mới được chứng. Do
nghịch sự hoàn thiện, phải hoàn thiện lại, nên mới cần tu.
Lấy việc chưa tu để tu, nên gọi chánh tu. Lấy việc chưa
sáng để làm sáng nên gọi chánh chứng. Bực chí nhơn khù
khờ, không tỏ lộ oai nghi nhưng đức độ thấm nhuần trời
đất. Bực chí nhơn ung dung tựa hồ không giữ giới, mà đạo
hạnh hiển bày khắp thiên hạ. Đó, v́ dùng chánh tu để tu,
dùng chánh chứng để chứng. Thế nên bảo: không tu, không
chứng, không nhân, không quả. Những kẻ xuyên tạc chẻ sợi
tóc làm tư, tranh nhau bàn luận, làm sai lạc ư chỉ của chí
nhơn.
Ôi! Bỏ giới định tuệ th́ đương nhiên rơi vào sự hỗn loạn
của chấp không, tôi cũng chẳng biết phải làm sao. Hỡi ôi!
Chúng sanh để ch́m lấp chơn tâm cho khởi dậy tâm thức.
Thức và nghiệp theo nhau như bóng với h́nh, chưa từng dừng
lại bao giờ! Khi nó phát ra thành h́nh tướng, th́ người và
vật sinh sản tràn lan trong trời đất, nào ai có thể đếm
hết. Được mang lại thân người th́ hàng vạn mới có một.
Bậc giác ngộ cơ hồ rất ít. Bực Thánh Nhân ấp ủ điều đó,
vận dụng nhiều phương tiện để làm sáng tỏ, nhưng người đời
vẫn không thấu hiểu. Thánh nhơn muốn cứu đời, tuy dùng
nhiều giải pháp mong sửa đổi, nhưng thiên hạ vẫn chưa thức
tỉnh.
Người hiền th́ bị trí làm rối loạn, kẻ bất tiếu bị u mê
che khuất. Hạng b́nh thường th́ bị vô kư làm cho hôn muội.
Cho nên, khi tiếp xúc với cảnh vật, phát sinh t́nh cảm, bị
những mừng, giận, buồn, vui, che khuất muôn ngàn mối, khác
nào lữ khách lần ḍ trong đêm tối chẳng biết sẽ về đâu.
Những ai theo lời dạy của thánh nhơn th́ được kế thừa và
phát huy. C̣n những kẻ mù mờ có tham vọng viễn vong th́
gọi nào có, nào không, nào chẳng có, chẳng không; nào vừa
có, vừa không. Đó, chỉ v́ không thấy nên bị khuất lấp,
khiến trọn kiếp chẳng thể nào thông tỏ được.
Biển là nơi tập trung nước từ muôn nơi đổ về, cá rồng sống
chết trong biển vẫn không hề thấy nước. Đạo tại tâm, nhưng
có người suốt ngày bàn về đạo vẫn không hề thấy tâm. Thật
đáng thương! Tâm rất vi diệu, cao vời, khó tỏ, khó thấu.
Thánh nhơn đă ẩn khuất, thiên hạ trăm đời tuy viết sách
truyền bá chánh đạo, chưa hề được chứng nghiệm. Thế nên,
kinh Pháp Bảo Đàn nêu ra tôn chỉ: chỉ thẳng tâm này,
bấy giờ thiên hạ mới thấy được tâm tánh của chính ḿnh,
khác nào vẹt mây mù chợt thấy trời xanh, lên đỉnh núi cao
phóng mắt nh́n được khắp vũ trụ.
Kinh Niết bàn chép: "Khởi đầu từ vườn Lộc Uyển, chí đến
lúc kết thúc tại sông Bạt đề, thời gian 50 năm, chưa từng
giảng một chữ nào", tức ngầm chỉ pháp chẳng phải do
văn tự, để pḥng những người chỉ căn cứ vào văn tự mà t́m
cầu thật tướng.
Dạy: "Y pháp không y người" v́ pháp th́ chân mà
người th́ giả.
Dạy: "Y trí không y thức" bởi trí th́ đến chỗ cùng
tột, c̣n thức th́ vọng.
Dạy: "Y nghĩa không y lời" v́ nghĩa th́ chơn, lời
là giả.
Dạy: "Y kinh liễu nghĩa, chớ y kinh không liễu nghĩa"
v́ kinh liễu nghĩa th́ tận lư, c̣n kinh không liễu nghĩa
vẫn chưa rốt ráo.
Thế nên, Bồ tát mới tuyên thuyết Đại Niết Bàn, những điều
thuyết ra đều phù hợp với kinh điển.
Bực thánh nhơn căn cứ vào 4 thứ này mà ra đời. Người hộ
tŕ chánh pháp cần thấu triệt. V́ thấu triệt, nên bực chí
nhơn mới nâng gốc để làm thẳng ngọn. Điều giảng giải phù
hợp với kinh điển, nên bực chí nhơn giảng kinh đúng kinh.
Y nghĩa, y kinh liễu nghĩa, nên bực chí nhơn tuyên thuyết
rơ ràng phù hợp với nghĩa, phù hợp với kinh. Y pháp, y
trí, nên bực chí nhơn mật thuyết liền thông suốt, không bị
chướng ngại, v́ muốn chỉ rơ pháp không phải do văn tự, nên
bực chí nhơn vận dụng tôn chỉ mật truyền. Bực chí nhơn như
cây cỏ mùa xuân, ngày càng phát triển. Bực chí nhơn như
ánh sáng mùa thu, càng chiếu soi càng tỏ rạng.
Thánh nhơn truyền lịnh bực chí nhơn liền tuân theo. Phải
bực chí nhơn mới xứng đáng môn đồ, và huân tập được đức độ
thù thắng của Thánh nhơn.
Bực chí nhơn ban đầu vờ như ḿnh thấp kém, không biết văn
tự thế tục. Đến khi thành nghiệp lớn, giáo hóa một phương,
tuyên dương đại pháp cứu độ đời, mới tỏ ra khế hợp với
công dụng của bực Đại Thánh nhơn. Thế nên, đối với bực đức
cao, thượng trí khi sinh ra đă biết, nhân v́ muốn hiển bày
diệu pháp mới bảo rằng ḿnh không biết.
Trải qua gần 400 năm, giáo pháp lưu truyền khắp bốn phương
không hề gián đoạn; nào là Đế vương, nào là Thánh hiền,
suốt 30 đời, càng t́m đến đạo của Tổ càng thêm tôn kính,
không ai là không đạt đến chỗ tận cùng của bực Đại Thánh
nhơn.
Ngày nay, giáo pháp đang lu mờ. Ôi! Tôi không nỡ nào im
lặng nh́n, nên cố gắng góp phần công mọn trong việc phục
hưng nền đạo, dầu tự biết ḿnh am tường đạo chẳng bao
nhiều, nhưng tôi nhờ may mắn như muỗi ṃng uống được nước
biển, biết được chút ít hương vị, nên mạo muội cúi đầu bộc
bạch, mong để lại đôi điều cho người hậu học.
Đại sư KHẾ TUNG hiệu MINH GIÁO đời Tống,
soạn. (Đ. 48, tr 346)
Dịch giả: Ẩn danh.
LỜI
NGƯỜI DỊCH
-- ***
--
Theo kinh Đại
Tạng do Ban tân tu của chùa Thiện Đạo ở Đài Bắc
(Đài Loan)
có 3 bản Kinh
Pháp Bửu Đàn, một do Thiền sư Pháp Hải soạn; bản
thứ hai, Tỳ kheo Linh Thao giữ tại Bửu tháp, nơi an trí
chơn thân Đức Lục Tổ; bản thứ ba do Tỳ kheo Đức Dị sưu
tầm, được Tỳ kheo Tông Bửu đúc kết, hiện để tại chùa Quang
Hiếu.
Nhờ duyên may,
chúng tôi đọc được hơn 10 bản dịch Kinh
Pháp Bửu Đàn,
về văn thể, cách tŕnh bày, phần diễn dịch, mỗi bản đều có
sắc thái riêng, về nội dung chỉ có vài khác biệt nhỏ.
Mỗi lần đọc một
bản là thêm một lần chúng tôi xúc động. Xúc động v́ thương
cảm hoàn cảnh khó khăn, cay đắng, khốn khổ, cũng như xót
xa, ngậm ngùi về những nguy hiểm mà Đức Lục Tổ kiên nhẫn
chịu đựng, nhiều phen sinh mạng Người như sợi tơ
treo.
Về phương diện
giáo lư, tôn chỉ của Đức Lục Tổ cũng giản dị, thực tế, như
đời sống của Người:
PHẬT
tại
TÂM,
nhận được
TÂM CHÚNG SANH
liền thành Phật đạo. Với pháp môn ĐỐN GIÁO, Người
khuyên môn đồ nên cố gắng trau
TÂM,
hành tŕ
VÔ TƯỚNG,
VÔ NIỆM, VÔ TRỤ...
Cách tu học của Người cũng rất thực tiễn, Người
thường nhắc nhở môn nhơn nên t́m hiểu nghĩa lư trong chơn
kinh không nên chú trọng vào văn chương chữ nghĩa, có
nghĩa
"ngộ
lư quên lời".
Cũng kể từ Đức
Lục Tổ công khai hoằng dương chánh pháp, Thiền tông mới
được quảng bá và có căn bản vững vàng.
Điều quan trọng
khác, là niềm hănh diện của dân tộc, chúng tôi muốn nêu
lên sự thật: Đức Lục Tổ là người Việt, mà từ bao
trăm năm qua, sách sử phương bắc không giải thích rơ về
thân thế Người.*
V́ những yếu tố
trên, sau những đắn đo, cân nhắc, chúng tôi cố gắng dịch
từ nguyên bản Hán ngữ của Tỳ kheo Tông Bửu, tŕnh bày qua
tập sách nhỏ này bằng thể văn nhẹ nhàng, b́nh dị, như một
đóng góp khiêm nhường vào hành trang tu học, trân trọng
chuyên chở đến đồng đạo PGHH ruột thịt, đặc biệt ở vùng
đồng bằng sông Cửu Long.
Trong bản văn
chữ Hán, cách gọi nhau thời bấy giờ như "ta -
ngươi", chúng tôi xin được thay bằng "tôi -
ông" để nghe dịu dàng và thích hợp với cách xưng hô
trong gia đ́nh PGHH.
Tự biết kiến
thức ḿnh có giới hạn, không sao tránh khỏi sơ xuất, chúng
tôi rất mong được sự chỉ giáo của quí đồng đạo và các bực
cao minh, để lần tái bản thứ hai, Kinh Pháp Bửu Đàn
này sẽ hoàn thiện hơn.
Tu sĩ Thái Ḥa và
Cư sĩ Hồ Minh Châu.
Kính Cẩn.
*- Sinh quán của đức Lục Tổ và thời gian Ngài tại thế
638 - 713 ở Lănh Nam, mà Lănh Nam thời bấy giờ là lănh thổ
của tộc Việt.
- Tái bản lần thứ nhứt – Đầu xuân Ất Dậu – 2005 dl.- Phật
lịch 2559.
- Bản in lần thứ hai có một số từ ngữ được giản dị hoá.
Đầu xuân Bính Tuất – 2006 dl - Phật l ịch 2560.
Dịch giả.
KINH
I.- HÀNH DO
LỤC TỔ ĐẠI SƯ LƯỢC THUẬT TIỂU SỬ
Đây là bản văn ghi chép lời của Từ Tổ Tỳ Kheo Thích Tông
Bửu, trụ tŕ Báo Ân Quang Hiếu thiền tự, về sự kiện
"gió động hay phướn động".
Bấy giờ Đại Sư
đến chùa Bửu Lâm, Vi Cừ, Thứ sử Thiều Châu, cùng các quan
viên, vào núi thỉnh Sư về chùa Đại Phạm để khai duyên
thuyết pháp.
Đại Sư lên bục
giảng, Thứ Sử, quan viên hơn 30 người, nho gia học sĩ hơn
30 người, tăng, ni, đạo, tục hơn ngàn người, đồng đảnh lễ,
kính cẩn lắng nghe yếu lư Phật pháp. Đại Sư:
-
“Thiện
tri thức! Tánh Bồ đề, tức tánh Giác ngộ của ḿnh, tự nhiên
có sẵn và luôn trong sạch, nên dụng tâm này tu, Phật quả
sẽ viên thành”.
- “Thiện tri
thức! Hăy nghe nguyên do Huệ Năng tôi đi tu và đắc pháp:
Thân sinh tôi quê ở Phạm Dương, bị giáng chức đày về Lănh
Nam, huyện Tân Châu. Thân này bất hạnh, cha mất sớm, mẹ
già cô đơn, dời qua Nam Hải. Trải bao gian khổ, nghèo túng,
tôi phải bán củi ngoài chợ nuôi sống. Một hôm có vị khách
mua củi, bảo đem đến nhà trọ, khách nhận củi, trả tiền
xong, Năng tôi ra cửa, thấy một vị tụng kinh, nghe lời
kinh, tâm liền tỏ ngộ, tôi hỏi:
- “Ông tụng
kinh ǵ vậy?” Khách đáp:
- “Kinh
Kim Cang”. Tôi hỏi tiếp:
- “Ông từ đâu
đến đây tụng kinh này?” Khách:
- “Tôi từ Kỳ
Châu, huyện Huỳnh Mai, chùa Đông Thiền, do Ngũ Tổ Hoằng
Nhẫn Đại Sư chủ tŕ, nơi đó hóa độ môn nhơn hơn ngàn người.
Tôi thường đến lễ bái và thỉnh được kinh này. Nhẫn Đại Sư
khuyên tăng, tục thường nên tụng kinh Kim Cang, sẽ
được thấy tánh, thành Phật”.
Năng tôi nghĩ ḿnh có tiền duyên, được nghe lời kinh, vừa
có 10 lượng bạc của vị khách tụng kinh cho và khuyên tôi
về lo liệu áo cơm cho mẹ già, rồi nên đến huyện Huỳnh Mai
tham lễ Ngũ Tổ.
Sau
khi sắp xếp cho mẹ, tôi từ giă lên đường. Đi chưa quá 30
ngày, đến huyện Huỳnh Mai, vào lễ, Ngũ Tổ hỏi:
- “Ông người
xứ nào đến đây, muốn cầu việc ǵ?” Tôi bạch:
- “Đệ tử dân
Lănh Nam, huyện Tân Châu, từ xa đến đây lễ Ḥa thượng, chỉ
cầu làm Phật“. Tổ bảo:
- “Người Lănh
Nam là Nam rợ, sao có thể thành Phật được?”.
- “Người tuy
chia Nam Bắc, Phật tánh đâu có Bắc Nam, thân Nam rợ này
đối với Ḥa thượng không đồng, nhưng Phật tánh có ǵ khác
biệt”.
Tổ muốn hỏi
thêm, nhưng thấy nhiều người vây quanh, nên sai Năng tôi
ra nhà sau làm việc. Tôi thưa:
- “Bạch Ḥa
thượng, tâm đệ tử thường sanh trí huệ, không rời tánh ḿnh,
đó là ruộng phước
(phước điền);
chẳng hay Ḥa thượng c̣n dạy đệ tử làm việc chi?” Tổ quở:
- “Người Nam
rợ này căn tánh thông minh, nhưng thôi, đừng hỏi nữa, đi
mau ra nhà sau”.
Khi đến hậu
viện, một hành giả sai tôi bửa củi và đạp chày giă gạo.
Tôi làm công việc này ṛng ră hơn 8 tháng. Một hôm, Tổ bất
chợt đến, thân mật an ủi:
- “Tôi nghĩ
chỗ nhận thức của ông dùng được, v́ sợ kẻ ác hại, nên
chẳng tiện nói nhiều, ông hiểu không?” Tôi bạch:
- “Đệ tử cũng
hiểu ư Thầy, nên không dám đến giảng đường, e chư tăng chú
ư ”.
Ngày nọ, Tổ
cho triệu tập các môn nhơn lại, dạy:
- “Người đời
sanh tử là việc lớn, các ông suốt ngày chỉ lo cầu phước mà
chẳng cầu thoát khỏi biển khổ sanh tử. Nếu tánh c̣n mê,
phước kia đâu cứu được. Các ông hăy lui ra, xét lại trí
Bát Nhă, mỗi người viết một bài kệ, tŕnh tôi xem, ai ngộ
lư Phật pháp, tôi sẽ truyền Y Bát, nối ngôi Tổ, đời thứ 6.
Các ông đừng chậm trễ và nên hiểu, nếu phải suy nghĩ, th́
không dùng được. Người thấy tánh khi vừa nghe liền
thấy ngay, được như vậy, dầu phải ra trận, tung hoành giữa
đao kiếm cũng thấy tánh. Đó là người sáng suốt”.
Đồ chúng nghe
dạy, lui ra, hợp lại, cùng bàn:
- “Chúng ta
khỏi cần nhọc tâm mệt trí viết kệ, đâu có ích ǵ, bởi
Thượng Tọa Thần Tú hiện là thầy Giáo thọ,¹ chắc sẽ được kế
truyền”.
Những người
chung quanh nghe đều yên tâm, đồng nói:
- “Chúng ta
từ nay theo thầy Thần Tú, viết kệ chi cho nhọc!”.
Về phần
Thượng tọa Thần Tú, ông suy nghĩ: đồ chúng không tŕnh kệ
v́ họ nể và ỷ vào ta, nên ta cần viết kệ tŕnh Ḥa thượng,
nếu không, ngài làm sao biết kiến thức cạn sâu trong tâm
ta. Tŕnh kệ cầu pháp là điều tốt, nhược bằng vọng cầu
ngôi Tổ, đó là nuôi ư xấu, như vậy, khác nào người phàm
muốn đoạt ngôi thánh; c̣n không tŕnh kệ, biết đến bao giờ
ḿnh mới được đắc pháp? Thiệt khó nghĩ !
Trước thiền
đường có ba gian hành lang, Ngũ Tổ định mời họa sư Cung
Phụng Lư Trân, đến họa những cảnh trong kinh Lăng Già,
cùng đồ h́nh hệ thống kế truyền 5 đời tổ, lưu lại để cúng
dường.² Thượng tọa Thần Tú hoàn thành kệ, mang tŕnh nhiều
lần, nhưng khi đến trước pḥng của Tổ, trong ḷng hoảng
hốt, toàn thân đổ mồ hôi, trước sau 4 ngày, cả thảy 13 lần
đến tŕnh kệ không đặng. Thượng tọa suy nghĩ, chi bằng qua
hành lang phía Nam biên kệ này, ngày mai khi Ḥa thượng
đến thấy, khen hay liền ra nhận kệ của ḿnh, nếu bị chê...
thật uổng cho công tŕnh bao năm tu hành, nhận lễ bái của
bá tánh trong khi đạo pháp ḿnh chẳng ra ǵ! Đến canh ba,
thừa lúc mọi người yên giấc, Thượng tọa cầm đèn chép kệ
trên vách hành lang phía Nam:
------
1.- Giáo thọ là thầy dạy đồ chúng học kinh trong chùa.
2.- Bộ kinh Lăng Già gồm 4 quyẻn, dạy về Thiền
học, do tổ Đạt Ma mang từ Ấn độ sang với đồ h́nh,
cùng kệ truyền tâm ấn - Từ tổ Đạt Ma đến tổ
Hoàng Nhẫn là 5 đời.
Kệ :
“Cội bồ đề là thân
Tâm như đài gương sáng
Lau chùi đừng xao lăng
Chớ để bám bụi trần”.
Chép kệ xong,
Thượng tọa trở về pḥng riêng lo nghĩ, nếu sáng ngày Ngũ
Tổ thấy kệ vui vẻ, tức ta với pháp có duyên, nhược bằng Tổ
chê, đó là tại tâm ḿnh c̣n mê, nghiệp chướng xưa nặng nên
chưa đắc pháp. Thánh ư thật khó lường ! Năm canh trăn trở,
nằm ngồi không yên!
Ngũ Tổ từ lâu
vốn biết Thượng tọa Thần Tú chưa thấy tánh, chưa vào cửa
đạo được. Sáng ngày, Tổ hướng dẫn Lư họa sư đến hành lang
phía Nam để vẽ đồ tướng, chợt thấy bài kệ trên vách, liền
bảo:
- “Thôi, họa
sư không cần vẽ, thật nhọc công ông từ xa đến, bởi kinh
Kim Cang chép: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”
(Phàm có h́nh tướng thảy đều hư giả),
nay có bài Kệ này, nên lưu lại cho người đời tụng, theo đó
tu khỏi đọa ác đạo, được lợi ích lớn. Tổ liền khiến môn
nhơn đốt hương lễ kính, và dạy:
- “Tất cả nên
tụng kệ này sẽ được thấy tánh”.
Đồ chúng tụng
kệ, vui mừng, đồng khen hay. Canh ba, Tổ gọi Thượng tọa
Thần Tú vào pḥng, hỏi:
- “Kệ chép ở
nam lang phải của ông không?” Thần Tú bạch:
- “Thật của
đệ tử, không dám vọng cầu ngôi Tổ, chỉ mong Ḥa Thượng mở
ḷng từ bi xem đệ tử có chút trí huệ chăng?”
- “Ư kệ của
ông chưa thấy tánh, chỉ mới đến cửa, chưa vào bên trong.
Thấy và hiểu như vậy, khó t́m Vô thượng bồ đề. Vô thượng
bồ đề khi nghe qua liền nhận được tâm, thấy được tánh,
không sanh, chẳng diệt. Trong tất cả thời gian, lúc nào
cũng thấy tánh, trước ngoại cảnh tâm luôn thông suốt. Nếu
biết chơn tướng một vật liền nhận được chơn tướng của vạn
vật. Đối cảnh, tâm không lay động, vẫn như như, tâm như
như là tâm chơn thật.¹ Thấy được như vậy là tự tánh Vô
thượng bồ đề, tức Phật tánh của ḿnh. Ông lui ra, trong
vài ngày viết bài kệ khác đem đến đây, tôi xem thấy được
sẽ truyền Y Pháp cho”
Thượng tọa
Thần Tú lễ tạ lui ra, về pḥng luôn mấy ngày đêm không
nghĩ được kệ, ḷng hốt hoảng, tinh thần không yên, ngồi
đứng xốn xang như người trong mộng.
Hai ngày sau,
một đồng tử đi ngang chỗ giă gạo, đọc kệ này. Tôi nghe
liền biết kệ chưa thấy tánh, tuy chưa được Tổ chỉ dạy,
nhưng đă rơ đại ư, mới hỏi đồng tử:
- “Đọc đó là
kệ ǵ vậy?” Đồng tử:
- “Ông Nam rợ
này không biết ǵ hết, Đại Sư dạy: “Người đời sanh tử
rất quan trọng. Ngài định t́m người thừa kế, nên khiến môn
nhơn viết kệ tŕnh, nếu ngộ đại ư, sẽ được Ngài truyền Y
Pháp, nối ngôi Tổ, đời thứ 6 ”. Thượng tọa Thần Tú
viết bài kệ vô tướng này trên vách hành lang phía Nam, Đại
Sư dạy đồ chúng nên tụng và y theo đó tu, sẽ khỏi đọa ác
đạo, được nhiều lợi ích”. Tôi thưa:
- “Thượng
nhơn ơi! Tôi ở đây đă hơn 8 tháng, chưa từng bước ra khỏi
chỗ này, mong thượng nhơn dẫn tôi đến trước bài kệ để lễ
bái”. Đồng tử nhận lời. Lễ xong, tôi thưa:
- “Huệ Năng
tôi không biết chữ, xin thượng nhơn vui ḷng đọc kệ”.
Lúc đó có
quan Biệt Giá ở Giang Châu, họ Trương tên Nhựt Dụng, lớn
tiếng đọc. Nghe xong, tôi thưa:
- “Tôi cũng
có một kệ, nhờ quan Biệt Giá chép dùm”. Quan Biệt Giá ngạc
nhiên: - “Ngươi cũng làm kệ được sao? Việc này ít có!”.
Tôi thưa:
- “Muốn học
đạo Vô thượng bồ đề không nên khi người mới học,
nhiều người thấp hèn nhưng có thượng trí, người
thượng lưu
lắm khi không ư trí ǵ. Khi dể người có tội lớn!”
----
1.- Khi thấy được chơn tướng là biết rơ thật tướng của
một vật do nhơn duyên cấu tạo không có thực thể, dĩ nhiên
biết được thật tướng của vạn vật, tất cả đều giống như vậy.
Có vẻ hối hận,
quan Biệt giá căn dặn:
- “Hăy đọc kệ,
ta chép giùm, nếu ngươi đắc pháp nhớ độ ta trước, chớ quên
lời này”. Tôi đọc:
“Bồ đề vốn không cội
Gương sáng chẳng phải đài
Chơn như không một vật
Chỗ đâu bám trần ai?”
Kệ chép xong,
đồ chúng kinh ngạc, bàn tán xôn xao, than:
- “Không nên
đánh giá người qua tướng mạo bề ngoài. Bấy lâu nay nỡ nào
khi dể và hành hạ nhục thân Bồ Tát !”
Tổ thấy chúng
nhơn kinh ngạc, sợ Năng tôi bị người ám hại, liền lấy giày
bôi sạch bài kệ, bảo:
- “Cũng chưa
thấy tánh”. Bấy giờ đồ chúng mới yên ḷng.
Hôm sau, Tổ
kín đáo đến, thấy Năng tôi lưng đeo đá
(cho đủ nặng)
đạp chày giă
gạo, Ngài cảm động, than:
- “Người cầu
đạo v́ pháp quên ḿnh đến thế sao?” Lại hỏi:
- “Gạo trắng
chưa?” Tôi bạch:
- “Gạo trắng
đă lâu, chỉ thiếu giần sàng”.
Tổ dùng gậy
gơ vào cối 3 lần, rồi đi. Biết ư ngài, trống điểm canh ba,
tôi lẻn vào pḥng, Tổ lấy ca sa che quanh, rồi giảng kinh
Kim Cang, đến câu: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”.¹
Tôi nghe qua liền đại ngộ, tất cả vạn vật không rời tánh
ḿnh, bạch tiếp:
"Nào ngờ tánh
ḿnh vốn sẵn trong sạch.
Nào ngờ tánh
ḿnh vốn không sanh diệt.
Nào ngờ tánh
ḿnh vốn sẵn đầy đủ.
Nào ngờ tánh
ḿnh vốn không lay động.
Nào ngờ tánh
ḿnh hay sanh muôn pháp”.
Tổ biết Năng
tôi đă ngộ, liền dạy tiếp:
- “Không thấy
được ḷng ḿnh, học pháp vô ích, thấy được ḷng ḿnh, hiểu
tánh ḿnh mới trượng phu, là Phật, Thầy cơi Trời và cơi
Người”.
Canh ba thọ
pháp, không ai hay biết, Ngũ Tổ truyền pháp Đốn giáo
²
trao Y Bát rồi dạy:
- “Ông là Tổ
đời thứ 6, cố gắng giữ ǵn đạo tâm, hóa độ chúng sanh, lưu
truyền cho đời sau đừng để dứt mất”.
Nghe kệ:
“Có t́nh nên gieo giống
Do nhân, quả liền sanh
Không t́nh cũng không giống
Không tánh lấy ǵ sanh”.
Tổ dặn thêm:
- “Khi xưa Tổ
Đạt Ma mới đến xứ này, ḷng người chưa tin nên cần truyền
Áo ca sa làm tín vật, đời đời thừa kế. Pháp tức
dùng tâm truyền tâm để tự ngộ, tự hiểu. Từ xưa Phật
với Phật chỉ truyền bổn thể, Tổ với Tổ truyền kín bổn tâm.
Áo là đầu mối của việc tranh chấp, từ nay, ông không nên
truyền nữa sẽ nguy hiểm tánh mạng người lănh Áo. Ông hăy
đi gấp, e có người mưu hại”. Tôi bạch:
- “Đệ tử nên
đi xứ nào?” Tổ dặn:
- “Gặp Hoài
(Hoài Tập, tỉnh Quảng Tây)
th́ ngừng, đến Hội
(Tứ Hội, tỉnh Quảng Đông)
nên
ẩn”. Tôi lănh Y Bát, bạch:
- “Đệ tử
người phương Nam, không biết đường núi này, làm sao ra đến
cửa sông?” Ngũ Tổ trấn an:
- “Chớ lo!
Tôi sẽ đưa ông”. Tổ đưa tôi đến trạm Cửu Giang, bảo xuống
thuyền, rồi tự cầm chèo, Tôi vội bạch:
- “Thỉnh Ḥa
thượng ngồi, để đệ tử chèo”. Tổ thân mật:
- “Lẽ ra tôi
phải độ ông”. Tôi bạch:
- “Mê nhờ
Thầy độ, ngộ xong phải tự độ. Độ tên tuy có
một, chỗ xử dụng tùy lúc khác nhau. Đệ tử sanh tại biên
giới, lời nói không chính xác, khó nghe, mong ơn Ḥa
thượng thương t́nh truyền pháp, nên biết dùng tánh để tự
độ”.
------
1.- Câu này ở kinh Kim Cang Bát Nhă: theo tự
điển nghĩa là không chỗ trụ mà sanh tâm.
Nghĩa theo kinh:
chỗ không trụ là thể của chơn như. C̣n sanh tâm
là dụng của chơn như. Nếu dùng ư căn để sanh
phân biệt, th́ vô minh khởi: thương, ghét, yêu,
thích, ảnh hưởng đến sự phân đoán, tạo nên nghiệp, rồi
phải luân hồi. Không nên để tâm dính bất cứ một thứ ǵ.
2.- Đốn ngộ là phép dạy tắt, khiến hành giả nghe
giảng liền ngộ đạo.
Tổ khen:
- “Đúng vậy...
phải như vậy! Sau này Phật pháp do ông mở rộng. Ông đi rồi,
ba năm sau tôi tạ thế. Ông nên đi mau về hướng Nam, chớ
giảng sớm, v́ Phật pháp đang gặp khó”.
Từ biệt Tổ,
tôi rán sức đi mau về hướng Nam, 2 tháng sau, đến núi Đại
Dữu Lănh.
Phần Ngũ Tổ về chùa mấy ngày liền không thăng đường, đồ
chúng sanh nghi, đến thăm ḍ:
- “Bạch
Ḥa thượng có chút bịnh hay buồn phiền điều chi?”
- “Bịnh
th́ không, nhưng Y Bát đă về Nam”. Đồ chúng thưa:
- “Chẳng
hay ai được truyền thọ?” Ngũ Tổ ngập ngừng, đáp:
- “Ai...
Năng th́ được”.
Đồ chúng ước
chừng trăm người hối hả đuổi theo, mong đoạt lại Y Bát.
Trong số đó có vị tăng họ Trần tên Huệ Minh, trước kia là
tứ phẩm tướng quân, tánh t́nh thô bạo, nóng nảy, rán sức
vượt lên trước đuổi theo kịp. Tôi để Áo trên đá, trách:
- “Áo này là
tín vật, muốn dùng sức mạnh đoạt sao ?”
Nói xong,
Năng tôi ẩn vào đám cỏ rậm. Huệ Minh vội đến nhặt lên,
nhưng Áo không nhúc nhích, hoảng sợ, kêu lớn:
- “Hành giả,
hành giả, đệ tử v́ Pháp đến đây, không phải v́ Áo”. Năng
tôi ra ngồi trên bàn thạch, Huệ Minh đảnh lễ:
- “Mong ơn
hành giả thuyết pháp cho đệ tử nghe”. Tôi đáp:
- “Nếu ông v́
pháp đến đây, hăy ngưng hết mọi trần duyên, dứt các niệm
tưởng, tôi sẽ giảng cho ông nghe”. Huệ Minh im lặng hồi
lâu, tôi giảng:
- “Chẳng
tưởng việc lành, không nghĩ điều ác, lúc đó chính là bổn
lai diện mục, tức chơn tánh của Minh thượng tọa”.
Huệ Minh nghe
liền đại ngộ, bạch:
- “Ngoài lời
và ư này xin Đại sư cho đệ tử biết c̣n điều chi bí mật nữa
chăng?” Đại sư:
- “Lời tôi đă
nói th́ không c̣n bí mật, ông nên tự soi vào trong, sẽ
thấy mầu nhiệm”. Huệ Minh bạch:
- “Huệ Minh
từ lâu tu ở Huỳnh Mai nhưng chưa thấy bổn lai diện mục,
nay nhờ ơn Thầy chỉ dạy, như người uống nuớc, lạnh ấm tự
biết. Từ bây giờ hành giả là Thầy của Huệ Minh”. Tôi từ
chối:
- “Nếu ông
nghĩ vậy, chúng ta cùng thờ Sư Huỳnh Mai, cố gắng hộ tŕ
pháp này”. Huệ Minh bạch tiếp:
- “Kính xin
Đại sư dạy đệ tử nên về hướng nào?” Tôi đáp:
- “Gặp Viên
(Viên Châu)
nên dừng, đến Mong
(Mong Sơn)
ở lại ”. Huệ Minh lễ tạ, từ giă, xuống núi báo với đồ
chúng:
- “Ta đă lên
tới đỉnh núi, nhưng không thấy tung tích, các ông nên đi
hướng khác t́m”. Tất cả đều tin.
Sau đó, Huệ Minh lấy hiệu Đạo Minh, cố ư tránh tên thầy.
Vừa tới Tào
Khê, bọn ác theo kịp, Năng tôi phải lánh ḿnh trong nhóm
thợ săn, ở ấp Tứ Hội hơn 15 năm. Thời gian này, tôi tùy
nghi thuyết pháp cho chúng nghe, dầu vậy, tôi vẫn thường
bị sai giữ lưới. Khi thú cầm mắc lưới, Năng tôi đều kín
đáo thả hết. Lúc nấu ăn, tôi để rau trong nồi thịt, chúng
hỏi, tôi trả lời:
- “Chỉ ăn rau
luộc bên thịt ”.
Ngày nọ, nghĩ
không thể ẩn măi nơi này, tôi liền đến chùa Pháp Tánh,
Quảng Châu, nhằm lúc Ấn Tông pháp sư giảng kinh Niết Bàn.
Bấy giờ có luồng gió nhẹ thổi lá phướn trước sân chùa lay
động, một vị tăng lên tiếng:
- “Gió
động”, vị tăng khác cải:
- “Phướn
động”, nghị luận không ngưng. Tôi liền can:
- “Không phải
gió hay phướn động, chính tâm hai ông động”.
Tất cả giật
ḿnh. Ấn Tông mời tôi lên đàn, hỏi về Phật lư, tôi giải
đáp rơ ràng, lời giản dị. Nghe xong, Ấn Tông bạch:
- “Hành giả
nhứt định người phi thường, từ lâu tôi nghe Y Bát Huỳnh
Mai đă về Nam, phải hành giả chăng?” Tôi khiêm nhượng:
- “Không dám!”
Ấn Tông đảnh lễ, thỉnh cầu cho đại chúng được xem Y Bát.
Xong, Ấn Tông bạch thêm:
- “Cách
truyền pháp của Sư Huỳnh Mai thế nào?”
- “Truyền
trao th́ không, chỉ dạy thấy tánh; chẳng luận về thiền
định và giải thoát ”. Ấn Tông ngạc nhiên bạch:
- “Tại sao
không luận thiền định và giải thoát ?” Tôi đáp:
- “V́ hai
pháp đó không phải của Phật, Phật pháp vốn không hai ”. Ấn
Tông hỏi thêm:
- “Sao gọi
Phật pháp không hai ?” Tôi giải thích:
- “Pháp sư
giảng kinh Niết Bàn đă rơ, Phật tánh tức pháp không hai
của Phật pháp. Như Bồ Tát Cao Quí Đức Vương bạch với Phật:
“Người phạm 4 tội trọng, 5 điều nghịch và nhứt xiển đề,
có dứt thiện căn Phật tánh chăng ?” Phật dạy: “Thiện
căn có 2 thứ, một là thường, hai vô thường, Phật tánh
chẳng phải thường cũng chẳng phải không thường, nên Phật
tánh không dứt, đó gọi pháp không hai. Căn cũng có hai,
một thiện hai không thiện, Phật tánh không thiện cũng
không phải không thiện, nên gọi Phật tánh không hai. Uẩn
với giới người phàm thấy hai, người trí hiểu tánh ấy không
hai, tánh không hai tức Phật tánh”.
Ấn Tông nghe
giảng vui mừng, chấp tay bạch:
- “Tôi giảng
kinh như gạch ngói, nhơn giả luận nghĩa như vàng ṛng”.
Nhơn đó, xuống tóc cho tôi và tôn là Thầy.
Nơi cội bồ đề,
tôi khởi sự giảng:
- “Năng tôi
đắc Pháp môn Đốn giáo này tại Đông Sơn, đă chịu
nhiều cực khổ, mạng từng nguy hiểm như sợi tơ treo, ngày
nay được cùng sử quân và quí vị quan viên, tăng, ni, đạo,
tục, tựu họp một hội nơi đây, do có duyên nhiều đời, cúng
dường chư Phật nhiều kiếp, đă trồng căn lành, mới được
nghe nguyên nhân đắc pháp và pháp môn đốn giáo. Pháp, do
các bậc Thánh đời trước truyền lại, không phải tôi tự đặt.
Nguyện khi nghe những lời dạy của các bậc Thánh xưa, quí
vị nên lắng tâm thanh tịnh, nghe xong tự trừ nghi hoặc, sẽ
chứng đắc như chư Thánh, không khác biệt ”.
Tất cả nghe
pháp đều vui mừng, đảnh lễ lui ra.
- *** -
II.- BÁT NHĂ
LỤC TỔ GIẢI NGHĨA TRÍ HUỆ
-- *** --
Qua ngày sau,
Vi Sử Quân xin được chỉ dạy thêm, Đại Sư lên bục giảng,
bảo đại chúng:
- “Tất cả quí
vị nên tịnh tâm niệm: Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật Đa”. Đại Sư
giảng tiếp:
- “Thiện tri
thức! ¹ Mỗi người đều có trí Bồ đề Bát Nhă, v́ tâm mê muội
không thể tỏ ngộ, phải nhờ đại thiện tri thức chỉ dẫn mới
được thấy tánh. Nên hiểu, người mê kẻ trí đều có Phật tánh,
không khác biệt, v́ mê ngộ không đồng mới có kẻ tối người
sáng. Nay tôi giảng pháp Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật cho quí
vị được đắc trí huệ, nên lắng tâm nghe kỹ ”.
- “Thiện tri
thức! Người đời suốt ngày miệng niệm Bát Nhă mà không rơ
Bát Nhă có sẵn trong tánh ḿnh, ví như nói ăn nhưng không
ăn sao no; miệng nói tâm không mà không biết
chơn không để tu, muôn kiếp cũng chẳng thấy tánh, rốt
cuộc không ích lợi”.
- “Thiện tri
thức! Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật, tiếng Phạn, ² người Trung
Hoa dịch: Đại trí huệ đáo bỉ ngạn, có nghĩa trí huệ
lớn, đến bờ bên kia, tức bờ giác. Tu do tâm hành chẳng do
miệng niệm. Miệng niệm tâm không hành như mộng ảo, như
biến hóa, như sương mù, như điện chớp. Miệng niệm tâm phải
hành, ḷng và miệng hợp nhau. Chơn tánh là Phật,
rời tánh không có Phật”.
- “Thiện tri
thức! Sao gọi Ma Ha? Ma Ha là lớn, lượng của tâm rộng lớn
bao la như không gian, chẳng có giới hạn bến bờ, không
vuông tṛn, lớn nhỏ, chẳng xanh đỏ trắng vàng, không trên
dưới, ngắn dài, không giận, không vui, không phải quấy,
không thiện ác, không đầu đuôi. Các cơi của chư Phật cũng
bao la rộng lớn như không gian vậy”.
- “Thiện tri
thức! Tánh huyền diệu của người đời vốn trống
----
1.- Bạn hiền về đạo lư. Người có đạo hạnh cao.
2.- Văn tự cổ Ấn độ.
không, chẳng
thứ ǵ có thể t́m được trong đó, tánh chơn không của chúng
ta cũng giống như vậy”.
- “Thiện tri
thức! Đừng nghe tôi giảng không, liền chấp không. Cần nhứt,
chớ chấp không, nếu để tâm không ngồi yên liền rơi vào vô
kư không”.
(không nghĩ, không nhớ ǵ hết).
- “Thiện tri
thức! Thế giới tuy trống không nhưng bao gồm vạn vật, các
cảnh sắc có h́nh trạng như: mặt trời, trăng, sao, núi,
sông, đất liền, suối, nguồn, sông, rạch, cây, cỏ, rừng,
bụi, người ác, kẻ hiền, việc ác, điều lành, thiên đường,
địa ngục, tất cả biển lớn, các núi Tu Di, đều ở trong
không gian, chơn tánh của người đời cũng trống không như
vậy”.
- “Thiện tri
thức! Chơn tánh của chúng ta có khả năng dung chứa tất cả
cảnh vật, nên gọi rộng lớn. Các cơi đều ở trong chơn tánh
người đời. Không chứa chấp trong ḷng việc ác, điều lành
của người khác, không giữ bỏ, không nhiễm mắc, vẫn b́nh
lặng như không trung rộng bao la, gọi Ma Ha”.
- “Thiện tri
thức! Người mê niệm suông ngoài miệng, kẻ trí thực hành
trong tâm. Người mê ngồi yên lặng để tâm trống rỗng, các
việc đều không nghĩ đến, tự cho ḿnh cao siêu. Hạng người
này đă rơi vào tà kiến, khó trao đổi với họ”.
- “Thiện tri
thức! Thể tích của tâm
(sức chứa đựng),
rộng lớn vô cùng tận, bao trùm các cơi, nên gọi lớn. Công
dụng của tâm giúp ta xét đoán, hiểu biết tường tận, phân
minh sự việc. Tất cả đều do một tâm, nên gọi tất cả là một.
Do một tâm, khi dùng hiểu rành tất cả, nên gọi một là tất
cả. Thể của tâm luôn tự do lui tới, sáng tỏ, thông suốt,
không vướng ngại, là Trí Huệ Bát Nhă”.
- “Thiện tri
thức! Tất cả trí Bát Nhă đều từ tánh sanh, không t́m bên
ngoài đem vào, chớ lầm dùng ư thức, phải dùng chơn tánh.¹
Khi dùng chơn tánh tất cả đều chơn”.²
- “Thiện tri
thức! Lượng của tâm phải dùng vào việc lớn, chẳng theo
điều nhỏ.³ Chớ nên suốt ngày miệng nói không mà trong tâm
chẳng tu hạnh này, như vậy khác ǵ người thường mê muội
nuôi tham vọng mạo xưng vương, rốt lại chẳng được ǵ. Hạng
người này không phải đệ tử của tôi”.
- “Thiện tri
thức! Sao gọi Bát Nhă? Là tiếng Trung Hoa, đời
Đường, có nghĩa trí huệ sáng suốt. Tất cả nơi chốn, bất cứ
thời gian, các niệm tưởng không mê, thường hành sáng suốt,
gọi hạnh Bát Nhă. Một niệm tưởng hôn muội Bát Nhă dứt, một
niệm tưởng sáng suốt Bát Nhă liền sanh”.
- “Thiện tri
thức! Người đời mê muội chẳng thấy Bát Nhă, miệng luôn
niệm Bát Nhă mà trong tâm mê tối, họ thường tự hào rằng tu
Bát Nhă, lúc nào cũng nói không nhưng chẳng biết lư chơn
không. Bát Nhă không h́nh tướng, tâm sáng suốt tức
Bát Nhă. Hiểu rơ như thế, tức trí Bát Nhă”.
- “Thiện tri
thức! Sao
gọi Ba La Mật? Là tiếng Ấn Độ, Trung Hoa dịch: đáo bỉ
ngạn, tức đến bờ bên kia,
(có nghĩa giải thoát, dứt sanh diệt).
Chấp
cảnh, sanh diệt liền khởi như nước dậy sóng, là c̣n bờ bên
này. Rời các cảnh, sanh diệt dứt, nước lưu thông liền đến
bờ bên kia, tức bờ giải thoát là hết sanh diệt, gọi Ba La
Mật”.
- “Thiện tri
thức! Người mê miệng niệm nhưng trong tâm c̣n vọng động,
tưởng điều sai quấy. Mỗi niệm tưởng tâm thường hành Bát
Nhă, là chơn tánh. Ngộ lư này gọi pháp Bát Nhă, tu hạnh
này tức hạnh Bát Nhă. Chẳng tu, c̣n phàm phu, một niệm tu
hành tự thân bằng Phật”.
- “Thiện tri
thức! Phàm phu giác ngộ là Phật, phiền năo dứt sạch tức bồ
đề. Niệm tưởng trước c̣n mê là phàm phu, niệm tưởng sau tỏ
ngộ tức Phật. Niệm tưởng trước chấp cảnh c̣n phiền năo,
niệm tưởng sau dứt các cảnh là bồ đề”.
- “Thiện tri
thức! Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật tối cao, tối thuợng, là đệ
nhứt. Không trụ, không đến, chẳng tới lui.
-----
1 – 2.-
Nhận được chơn tánh và dùng chơn tánh th́ thấy biết các
việc đều chơn. Khi rơ được chính xác một vật, th́ hiểu
được muôn vật, nên gọi một chơn tất cả đều chơn. Nếu dùng
ư thức để phân biệt sự việc, th́ bị ảnh hưởng của ngoại
cảnh làm sai lầm, tạo nên nghiệp, sẽ phải luân hồi chịu
trả quả.
3.- Làm chuyện lớn là dùng trí Bát Nhă tu thành Phật.
Làm việc nhỏ là tu phước để hưởng lạc thú ở cơi Trời và
cơi người. Khi hết phước phải chịu đọa trầm luân.
Ba đời chư
Phật nương đây tu thành. Dùng đại trí huệ chiếu sạch ngũ
uẩn và các phiền năo trần lao, biến ba độc: Tham, Sân, Si
thành Giới, Định, Huệ, tu được vậy nhứt định viên thành
Phật quả”.
- “Thiện tri
thức! Pháp môn của tôi từ một Bát Nhă, sanh tám vạn bốn
ngàn trí huệ. V́ sao? V́ người đời gây ra tám vạn bốn ngàn
trần lao, tức phiền năo; không c̣n phiền năo trí huệ liền
hiện, chẳng rời tánh ḿnh. Ngộ pháp này là không niệm:
ḷng không nhớ vẩn vơ, không mê chấp, không tưởng nghĩ sai
quấy. Dùng tánh chơn như, lấy trí huệ chiếu soi, đối cảnh
ḷng không giữ, chẳng bỏ, liền thấy tánh thành Phật đạo”.
- “Thiện tri
thức! Nếu muốn vào cảnh giới vi diệu của Bát Nhă Chánh
Định, nên hành hạnh Bát Nhă và tu theo kinh Kim Cang sẽ
được thấy tánh. Nên biết công đức kinh này vô lượng vô
biên, những lời trong kinh ca ngợi hạnh Bát Nhă rơ ràng
không thể kể hết. Pháp môn này là tối thượng thừa, dùng
giảng cho bực đại trí, giải thích với người thượng căn”.
- “Thiện tri
thức! Người căn trí kém, khi nghe ḷng không tin. V́ sao?
Ví như trận mưa to xuống cơi Diêm phù, thành thị, làng xóm,
bộ lạc đều bị nước ngập lụt, cuốn trôi như trôi lá táo,
như trôi cỏ rác; nếu mưa xuống biển lớn khó phân biệt
lượng nước thêm hay bớt. Người đại thừa, người tối thượng
thừa, nghe kinh Kim Cang tâm liền tỏ ngộ. Nên hiểu, chơn
tánh của người đời sẵn có trí Bát Nhă, vậy, nên dùng trí
Bát Nhă tự soi sét, phân đoán sự việc, đừng chấp văn
chương, chữ nghĩa. Ví như nước mưa không phải có tự nơi
trời, mà do rồng rút lên¹, khiến chúng sanh, thảo mộc, các
loài hữu t́nh
(có tri giác),
vô
t́nh
(không tri giác),
đều
được thấm nhuần. Nước từ sông rạch chảy ra biển, hợp thành
một thứ nước, trí Bát Nhă của chơn tánh chúng sanh cũng
vậy”.
----
1.- Trước khi khoa học chứng minh hơi nước bốc lên
thành mây, rồi tan rả rơi xuống là mưa. Người xưa tin rồng
hút nước làm mưa.
- “Thiện tri
thức! Người căn cơ kém, khi nghe pháp đốn giáo như cây cỏ
gốc rễ nhỏ, gặp mưa to phải xiêu ngă, không tăng trưởng
được. Trí Bát Nhă sẵn có trong mỗi người, không khác biệt,
tại sao nghe pháp chẳng tự sáng tỏ, v́ tà kiến, nghiệp
chướng quá nặng, gốc rễ phiền năo rất sâu, như mây lớn che
khuất mặt trời, nếu chẳng nhờ gió mạnh thổi tan, ánh sáng
không chiếu ra được. Trí Bát Nhă cũng không lớn nhỏ, v́
tâm chúng sanh mê, sáng chẳng đồng. Người tu hành tâm mê
t́m Phật theo h́nh tướng bên ngoài, v́ chưa nhận được chơn
tánh, tức căn cơ kém. Nếu hiểu pháp đốn giáo không chấp
h́nh thức bên ngoài, chỉ cần trong tâm luôn giữ chánh kiến
th́ phiền năo trần lao không nhiễm được, liền thấy tánh”.
- “Thiện tri
thức! Tâm ta trong ngoài không nhiễm mắc, chẳng vướng cảnh,
lui tới tự do, thông suốt, tu được hạnh này, đối với kinh
Bát Nhă không khác”.
- “Thiện tri
thức! Tất cả văn tự trong kinh Tu Đa La đại tiểu hai thừa,
12 bộ kinh, đều do người trí huệ viết. Nếu không có người
đời, vạn pháp đương nhiên không có”.
- “Thiện tri
thức! Nên hiểu, vạn pháp vốn do người đời thành lập, kinh
sách do người giảng giải, biên chép mới có. Người thế gian
có mê có sáng, mê gọi tiểu nhơn, sáng là đại nhơn. Kẻ mê
hỏi người sáng, người sáng giảng cho kẻ mê được tỏ ngộ,
tâm trí thông suốt, đâu c̣n phân biệt mê sáng nữa”.
- “Thiện tri
thức! Chưa ngộ, Phật c̣n trong chúng sanh. Tỏ ngộ, chúng
sanh thành Phật. Nên biết, vạn pháp do tâm, tại sao không
dùng tâm ta để thấy chơn như bổn tánh, tức Phật tánh? Kinh
Bồ Tát giới chép: “Bổn nguyên tự tánh vốn trong sạch”.
Nếu ngộ được tâm, thấy được tánh liền thành Phật đạo. Kinh
Tịnh Danh chép: “Tức thời tâm trí thông suốt, liền phục
hồi được bổn tâm”. ¹
- “Thiện tri
thức! Khi tôi ở nơi Nhẫn Ḥa thượng nghe một lời giảng
liền tỏ ngộ, thấy Chơn Như Bổn Tánh, nên tôi đem giáo pháp
này truyền lưu, giúp người học đạo sớm ngộ bồ đề, tự soi
tâm thấy tánh. Nếu tự ḿnh chưa ngộ, cần nhờ thiện tri
thức giảng giải pháp tối thượng thừa và chỉ đường tu chơn
chánh, v́ thiện tri thức có nhơn duyên với chúng sanh,
hướng dẫn mới được thấy tánh. Các pháp lành đều do thiện
tri thức lập. Chư Phật ba đời, ² 12 bộ kinh ³ trong tánh
mỗi người có đủ. Nếu tự ḿnh hiểu, khỏi cầu người ngoài.
Nhược bằng ỷ lại hoàn toàn vào thiện tri thức nhờ giải
thoát dùm là không ư thức. V́ sao? V́ tâm ta sẵn có tri
thức tự ngộ, nếu luôn khởi tà mê, vọng niệm điên đảo, dầu
thiện tri thức tận t́nh chỉ dạy cũng không sao giúp được.
Khi dùng chánh kiến Bát Nhă chiếu soi, trong chớp mắt vọng
niệm điên đảo diệt hết. Thấy được tánh, một niệm tưởng
giác ngộ liền đạt đến địa vị Phật”.
- “Thiện tri
thức! Dùng trí huệ chiếu soi trong ngoài sáng tỏ, rơ ràng,
liền nhận được chơn tâm, tức giải thoát, được giải thoát
là Bát Nhă Chánh Định, mới gọi Không niệm. Sao gọi
Không niệm? Thấy cảnh vật tâm không nhiễm, là Không niệm.
Dụng của tâm bao trùm các cơi không vướng mắc nơi nào. Cứ
tịnh tâm, khiến 6 thức
⁴ ra 6
cửa hợp với 6 trần, tâm không tạp nhiễm, lui tới tự do,
thông dụng không trở ngại, tức Bát Nhă Chánh Định tự tại
giải thoát, là hạnh Không niệm. Nếu cố đè nén tâm, không
cho nghĩ ngoại cảnh, khiến tư tưởng ngưng dứt vĩnh viễn,
là bị pháp trói buộc, gọi biên kiến,
(thấy một chiều)
thật sai lầm”.
- “Thiện tri
thức! Hiểu rơ pháp Không niệm liền suốt thông vạn pháp,
hiểu rơ pháp Không niệm tức thấy cảnh giới chư Phật, hiểu
rơ pháp Không niệm là đạt đến địa vị Phật”.
- “Thiện tri
thức! Đời sau nếu ngộ Pháp môn Đốn giáo, nên cùng những
người đồng chí hướng tu học, phát nguyện bảo tồn, chung
thân không thối chuyển cũng như phụng sự chư Phật, được
vậy, chắc chắn sẽ nhập Thánh vị. Từ nay về sau
nên truyền cho đúng và chẳng đặng giấu chánh pháp, tuy
nhiên, không nên truyền cho người khác chí hướng, không
quyết ḷng hành đạo, người khác phái, v́ kẻ mê không hiểu,
chê bai pháp môn Đốn giáo, khiến họ phải chịu trăm kiếp
ngàn đời dứt mất giống Phật tánh”.
-----
1.- Kinh Duy Ma Cật. 2 - 3.- Xin xem lời giải
ở cuối Phẩm.
4.- Thức là sự hay biết, của Mắt: Nhăn
thức. Của Tai: Nhĩ thức. Của Mũi: Tỹ thức. Của Lưỡi: Thiệt
thức. Của Thân: Thân thức. Của Ư: Ư thức. – 6 Cửa: Mắt,
Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ư. - 6 Trần: Sắc, Thinh, Hương, Vị,
Xúc, Pháp.
- “Thiện tri
thức! Tôi có bài kệ không tướng, các ông nên siêng tụng,
dầu ở tại nhà hay vào chùa, cứ y theo đó tu, nếu không tu
mà chỉ nhớ lời của tôi cũng không ích lợi. Nghe kệ:
“Tâm thông
giảng suốt thông
Như mặt trời
trên không.
Chỉ truyền
pháp thấy tánh,
Vào đời phá
tà tông.
Pháp không
phân mau chậm,
Mê ngộ có
chậm mau.
Pháp môn thấy
tánh này,
C̣n mê khó
hiểu thấu.
Giảng ra muôn
ngàn lối,
Chân lư vốn
một thôi.
Phiền năo
ḷng mê tối,
Đuốc huệ luôn
chiếu soi.
Khởi tà sanh
phiền năo,
Tâm chánh, mê
tối tan.
Chánh tà không
vướng bận,
Thanh tịnh tức
Niết bàn.
Bồ đề tự tánh
minh,
Tâm khởi vọng
liền sanh.
Nơi vọng có tịnh
tánh,
Dứt chướng nhờ
tâm thanh.
Người đời muốn
tu hành,
Ḷng đừng vương
ngoại cảnh.
Thường soi xét
lỗi ḿnh,
Với đạo đồng một
hạnh.
Sanh vật đều có
đạo,
Không nên hại
lẫn nhau.
Rời tâm, ngoài
t́m đạo,
Suốt kiếp chịu
lao đao.
Bôn ba trọn một
đời,
Rốt lại thêm
phiền năo.
Muốn thấy được
chơn đạo,
Tâm chánh ấy đạo
mầu.
Chưa phát được
đạo tâm,
Tạo quấy đạo khó
tầm.
Người tu hành
ngay thật,
Không nh́n lỗi
thế nhân.
T́m điều sai
người khác,
Chê bai là chưa
đạt.
Người trái ta
đừng sai,
Ta sai do bài
bác.
Nên quên hết tà
tâm,
Lánh xa điều
phiền năo.
Thương ghét cũng
không màng,
Thảnh thơi an
nhàn nghỉ.
Muốn độ người
cạn trí,
Phương tiện phải
sẵn sàng.
⁵
Hóa giải hết
nghi nan,
Chơn tánh hiện
rơ ràng.
Phật pháp nơi
thế gian,
Chớ xa đời tầm
giác.
T́m bồ đề lánh
trần,
Kiếm sừng thỏ
nào khác.
Chánh kiến là
xuất thế,
Tà kiến c̣n
trần gian.
Chánh tà đều
quên hết,
Bồ đề hiện rơ
ràng.
Kệ này là đốn
giáo,
Đồng danh đại
pháp thoàn.
Mê, cần tu nhiều
kiếp,
Ngộ, khoảnh khắc
thời gian”.
Phỏng dịch:
"Tâm
suốt thông giảng lời thông suốt,
Như mặt Trời
sáng rực trên không.
Thực hành
kiến tánh pháp môn,
Phật lực hóa
giải tà tông cơi trần.
Phật pháp vốn
không phân mau chậm,
Tùy mỗi người
mau chậm hiểu thôi.
Pháp môn kiến
tánh ra đời,
C̣n mê đâu dễ
thấu lời dạy khuyên.
Giảng giải ra
dầu thiên vạn lối,
Nhưng lư chân
một mối không hai.
Phiền năo
sanh, dạ u hoài,
Cần nương
đuốc huệ đêm ngày chiếu soi.
Tà tâm khởi,
cả đời thống thiết,
Chánh kiến
sanh thông suốt trong ngoài.
Thấp, cao,
hơn, thiệt, đúng, sai,
Ǵn ḷng
chánh trực thấy ngay Niết Bàn.
Tâm thanh
tịnh do nương Bát Nhă,
Sạch vô
minh, giác tánh hiện ra.
Gạn trong
lắng đục ḷng ta,
Dứt xong ba
chướng ái hà thoát qua.
Người chân tu
thiết tha hành đạo,
Đừng để ḷng
rong dạo khắp nơi.
Sửa lỗi ḿnh,
cẩn ư lời,
Học môn định
huệ đạo đời đều thông.
Người với vật
máu nồng cùng thắm,
Nỡ ḷng nào
tàn nhẫn hại nhau.
Đạo không thứ
bực thấp cao,
Chớ nên thay
đổi sớm vào chiều ra.
Dầu xuôi
ngược bôn ba hết kiếp,
Tàn hơi rồi,
hối tiếc mà thôi.
Thiền tông
gắng giữ trọn đời,
Làm điều ngay
thẳng phục hồi chơn tâm.
Không lập chí
tu môn đốn pháp,
Như người mù
đi lạc rừng đêm.
Đức hạnh luôn
chuốt trau thêm,
Thói hư nết
xấu, việc riêng mặc người.
Đừng ghé mắt
vào đời nhân thế,
Mới thiệt
hành định huệ suốt thông.
Cơi trần vạn
sự đều không,
Mặc người
phải trái, sạch trong phận ḿnh.
Dứt cho hết
trọng khinh nhân ngă,
Ḷng buồn
phiền tất cả xả tan.
Giàu nghèo,
thương ghét không màng,
Rèn tâm luyện
tánh an nhàn thảnh thơi.
Muốn hóa độ
lớp người cạn trí,
Phương tiện
cần giải tỏa lầm sai.
Xóa tan chấp
mắc lâu nay,
Tức th́ trước
mắt liên đài hiện ra.
Phật pháp tại
cơi ta bà,
Chớ đi tầm
giác rừng già núi non
Bồ đề kiếm
gầy ṃn thân xác,
Như t́m sừng
thỏ khác chi đâu.
Chánh kiến
xuất thế nhiệm mầu,
Tà kiến nhập
thế gây sầu thế nhân.
Chánh với tà
một lần dứt tuyệt,
Tánh bồ đề
nhất quyết hiện ra.
Pháp đốn giáo
từ Phật gia,
Đại pháp
thoàn cũng là đồng danh.
Người mê bền
chí tu hành,
Ngộ,trong
giây phút văng sanh Phật đài”.
Đại Sư dạy thêm:
- “Buổi giảng
tại chùa Đại Phạm hôm nay, tôi nguyện cầu chúng sanh có
duyên trong các cơi, nghe pháp môn Đốn giáo này
được thấy tánh thành Phật ”.
Bấy giờ Sử Quân
cùng quan viên, đạo, tục, nghe Đại Sư giảng, đều tỉnh ngộ,
đồng đảnh lễ và khen:
- “Nào dè Lănh
Nam có Phật ra đời !”
-- *** --
Giải thích các lời chú trang 32:
--
*** --
1. Kinh Lăng Già: Phật thuyết tại núi Lăng Già
đảo Tích Lan. 4 quyển nay c̣n 3 quyển.
a. Đời Tống Cầu Na Bạt Đà La dịch:
tên Lăng Già A Bạt Đà La bửu kinh (4 quyển).
b. Đời Nguyên, Ngụy Bồ Đề Lưu Chi
dịch: tên Nhập Lăng Già kinh (10 quyển).
c. Đời Đường: Thật Xoa Nam Đà dịch:
tên Đại thừa nhập Lăng già kinh (7 quyển).
2. Phật ba đời: Tức Tam Thế Tam Thiên Phật: Quá khứ
thế Trang Nghiêm Kiếp - Hiện tại thế Hiền Kiếp và Vị lai
thế Tinh Tú Kiếp. Mỗi kiếp 1,000 vị Phật ra đời.
--
*** --
Phụ
giải về 12 bộ Đại Thừa kinh:
1.- Tu đa la (Sùtra) dịch: Khế kinh, Pháp
bổn, là kinh Trường hàng. Khế kinh
(hợp căn cơ chúng sanh).
2.- Kỳ dạ (Geya) dịch: Ứng tụng,
hay Trùng tụng (thuyết nghĩa lư của kinh
trường hàng).
3.- Ḥa ca la na (Vyakarana) dịch: Thọ kư
(thọ kư các đệ tử sẽ thành Phật).
4.- Già đà (Gàthà) dịch: Phúng tụng,
Cô khởi tụng (kệ tụng).
5.- Ưu đà na (Udana) dịch: Tự thuyết
(tự Phật thuyết không ai hỏi).
6.- Ni đà na (Nidàna) dịch: Nhơn duyên
(có duyên được nghe pháp, và căn bản của vũ trụ).
7.- A ba đà na (Avadàna) dịch: Thí dụ
(thí dụ cho hiểu giáo pháp).
8.- Y đế mục đa già (Itivrtaka) dịch: Bổn
sự (đời quá khứ Bồ Tát và các đệ tử).
9.- Xà đà già (Jàtaka) dịch: Bổn sanh
(đời quá khứ đức Phật).
10.- Tỳ Phật lược (Vaipulya) dịch: Phương
quảng (giải nghĩa lư cao siêu tuyệt đối của đại
thừa).
11.- A Phù đà đạt ma (Adbhutahdarma) dịch:
Vị tằng hữu (oai lực thần thông của Phật).
12.- Ưu ba đề xá (Upadêsa) dịch: Luận
nghị, thuyết về lư luận (phân biệt chánh tà).
5.- Lời giải thích hợp căn cơ, giúp người tu được giác
ngộ.
III.- NGHI VẤN
HỎI CHỖ NGHI
-- *** --
Ngày nọ, Vi thứ
sử mở tiệc chay lớn đăi Đại Sư, xong tiệc, Thứ sử thỉnh
Đại Sư đăng đàn, quan viên, sĩ phu, thứ dân, đảnh lễ, đồng
cung kính bạch:
- “Chúng tôi
nghe Đại Sư thuyết pháp lư lẽ quá cao siêu, thật không thể
nghĩ suy, bàn luận được, nay có chút nghi ngờ, nguyện cầu
Đại Sư từ bi giải thích”. Đại Sư:
- “Quí vị có
điều nào nghi, xin bày tỏ, tôi sẽ giải”. Vi Công:
- “Bạch Đại Sư,
phần giảng giải của Đại Sư phải tông chỉ của Tổ Đạt Ma
không?” Đại Sư:
- “Phải”. Vi
Công:
- “Bạch Đại Sư,
đệ tử được nghe Tổ Đạt Ma ban sơ hóa độ Lương Vơ đế, Vơ đế
hỏi: “Trẫm một đời tạo chùa độ tăng, bố thí, đăi tiệc
chay, như vậy có công đức chi chăng?” Tổ Đạt Ma đáp: “Thật
không công đức! “ Đệ tử chưa hiểu lư này, kính xin Đại
Sư từ bi chỉ dạy”. Đại Sư giải thích:
- “Thật không
công đức, chớ nghi lời của Thánh trước kia. Vơ đế tâm tà,
chẳng biết chánh pháp. Tạo chùa độ tăng, bố thí, đăi chay,
là cầu phước, không thể lấy phước đó kể vào công đức được.
Công đức ở nơi pháp thân,
(tức từ trong đức tính căn bản của ḿnh, chớ chẳng phải do
tạo phước)“.
Đại Sư tiếp:
- “Thấy tánh, là
công, giữ ḷng b́nh đẳng, là đức.¹ Tâm thông suốt, luôn
giữ ǵn chơn tánh, hành động chơn chánh mới thật công đức.
Trong ḷng lúc nào cũng khiêm nhượng tức công, bên ngoài
giữ lễ gọi đức”.
- “Thiện tri
thức! Tánh ḿnh lập muôn pháp ² là công, tâm dứt vọng niệm
gọi đức, không quên tánh là công, ứng dụng không nhiễm
điều sái quấy gọi đức. Muốn t́m công đức ở pháp thân phải
y theo đó hành mới thật chơn công đức”.
-----
1.- Ḷng b́nh đẳng tức là tâm như như đối với tất cả
chúng sanh cùng vạn vật đều xem đồng một thể, không phân
biệt, không phân chia giai cấp.
- “Thiện tri
thức! Tu công đức tâm không nhơn ngă, không tự cao tự đại,
luôn ḥa nhă và lễ độ với tất cả. Nếu trong tâm c̣n khinh
người là nhân ngă chưa dứt, tức không công, tánh t́nh gian
trá, giả dối, là không đức”.
- “Thiện tri
thức! Niệm tưởng chơn chánh, liên tục, là công, tâm hành
ngay thẳng gọi đức; tự tu tánh là công, tự tu thân gọi đức”.
- “Thiện tri
thức! Công đức phải thấy từ trong tánh, chẳng phải do bố
thí, cúng dường, cố tạo h́nh thức bên ngoài mà được, v́
thế phước đức với công đức khác nhau.Vơ đế không rơ chân
lư chớ chẳng phải Tổ Sư sai lầm”. Thứ sử:
- “Đệ tử
thường thấy tăng tục niệm A Di Đà Phật cầu nguyện văng
sanh về Tây phương, vậy các vị ấy có được sanh về đó hay
không? Kính xin Đại Sư phá nghi dùm”.
- “Thứ sử nên
nghe kỹ, khi đức Thế Tôn nơi thành Xá Vệ giảng về sự tiếp
dẫn và hóa độ vào cơi Tây phương, Ngài giải rơ, cơi đó
không cách xa đây, nếu luận về tướng và số dặm, có 10 vạn
tám ngàn, nghĩa là trong thân ta có 10 điều ác,
³ 8
điều tà,⁴
đó là khoản cách giữa trần gian với Tây phương Cực lạc;
rất xa đối với người căn cơ thấp nhưng thật gần với người
thượng trí. Người đời có hai hạng tối, sáng, pháp tu không
hai bực, v́ mê ngộ khác nhau nên sự hiểu biết có chậm mau,
kẻ mê niệm Phật cầu văng sanh về Tây phương, người ngộ tự
tịnh nơi tâm. Phật dạy: “Tùy tâm tịnh tức Phật độ tịnh”,
Sử Quân người phương Đông nếu tâm thanh tịnh, vô tội;
người phương Tây tâm không thanh tịnh cũng có lỗi. Người
phương Đông tạo tội, niệm Phật cầu sanh về Tây phương, c̣n
người phương Tây tạo tội, niệm Phật cầu sanh về nước nào?
-------
2.- Tánh ta lập ra muôn pháp nghĩa là có
đủ 3 đức lớn: Giải - Tín - Hạnh.
3.- 10 điều ác: Sát sanh - Trộm cướp - Tà
dâm - Nói đâm thọc cho hai bên giận nhau - Nói lớn lối,
cậy thế - Nói điều ác , chưởi mắng, thô tục - Kêu Trời,
Phật, Thần, Thánh - Nói thêm bớt huyễn hoặc – Tham, S ân,
Si - Mê muội ngu tối.
4.- 8 điều tà: 1/-Tà kiến (thấy
điều tà) 2/- Nghĩ tà. 3/- Không tinh tấn,
lười biếng. 4/- Nói tà. 5/- Nghề nghiệp tà.
6/- Mạng tà. 7/- Niệm tà. 8/- Định tà.
Người mê
không rơ tánh ḿnh, chẳng biết tịnh độ tại thân, lo nguyện
Đông nguyện Tây! Người giác ngộ, dầu ở xứ nào vẫn một ḷng
thanh tịnh.V́ vậy, Phật dạy: “Tùy chỗ ở hằng an lạc”,
(người giác ngộ bất luận ở nơi nào cũng thấy an vui).
Sử Quân tâm giữ trong lành th́ đến cơi Tây phương không xa,
nhược bằng ôm ấp ḷng hiểm độc, dầu niệm Phật cầu văng
sanh suốt kiếp, Phật cũng không độ được. Tôi khuyên quí vị,
trước nên trừ 10 điều ác trong tâm, tức đi được 10 vạn,
sau dứt 8 điều tà là qua 8 ngàn; mỗi niệm tưởng đều thấy
tánh, thường hành ngay thẳng, khảy móng tay liền thấy Đức
Di Đà. Sử Quân lúc nào cũng thực hiện 10 điều lành, đâu
cần nguyện văng sanh, c̣n chứa 10 điều ác trong ḷng,
Phật nào đến nơi đón rước!”
- “Thiện tri
thức! Tỏ ngộ đốn pháp vô sanh, thấy Tây phương chỉ trong
chớp mắt, nếu chưa tỏ ngộ, cứ lo niệm Phật cầu sanh, đường
xa làm sao đến được?”
- “Thiện tri
thức! Quí vị muốn thấy không, Huệ Năng tôi dời cơi Tây
phương về đây trong chớp mắt”. Đồ chúng:
- “Nếu thấy
trước mắt, đâu cần nguyện văng sanh về đó nữa. Kính xin
Đại Sư từ bi hiện cảnh Tây phương để chúng tôi được thấy
”. Đại Sư:
- “Thiện tri
thức! Sắc thân người đời như thành tŕ, mắt, tai, mũi,
lưỡi là cửa, trong có cửa ư, tâm là lănh thổ, tánh là vua,
vua ở lănh thổ của tâm. Tánh c̣n vua c̣n, tánh đi vua mất.
Tánh c̣n thân tâm c̣n, tánh mất thân tâm hoại. T́m Phật
nên nh́n nơi tánh, đừng hướng ngoài thân t́m cầu vô ích.
Tánh mê là chúng sanh, giác ngộ tức Phật. Ḷng từ bi là
hiện thân của Đức Quan Âm Bồ tát, hỷ xả tức Đại Thế Chí Bồ
tát, ḷng luôn thanh tịnh tức Phật Thích Ca, tâm b́nh đẳng
chánh chơn là Phật A Di Đà. Ḷng nuôi nhân ngă là núi Tu
Di, tham dục, tà tâm như nước biển, phiền năo tràn đầy như
sóng xao, độc hại như rồng dữ, gian xảo, dối trá là ác quỷ,
sầu khổ trần lao giống cá rùa, tham sân thành địa ngục, mê
si như súc sanh”.
- “Thiện tri
thức! Thường hành 10 điều lành thiên đường liền đến, dứt
nhơn ngă núi Tu Di đổ, bỏ tham dục nước biển cạn, hết
phiền năo sóng xao lặng, trừ độc hại cá rồng tuyệt. Tu
được vậy giác tánh Như Lai tự tâm thanh tịnh phát ra ánh
sáng. Bên ngoài chiếu 6 cửa được thanh tịnh lại có công
năng vượt khỏi 6 cơi trời dục giới.¹ Nương tánh này soi
chiếu vào trong tiêu trừ ba độc: Tham - Sân -
Si, nhờ đó các tội ở địa ngục một lúc tiêu tan, trong
ngoài sáng suốt chẳng khác Tây phương. Không tu theo cách
này làm sao đến đó được”.
Đồ chúng nghe
giảng đều thấy tánh, đồng lễ bái khen thật hay, cùng kính
cẩn khấn:
- “Nguyện
cầu chúng sanh trong các cơi nghe xong liền hiểu rơ”.
Đại Sư giảng tiếp:
- “Thiện tri
thức! Muốn tu, tại nhà cũng được, không nhứt thiết phải
vào chùa. Tại nhà thực hành nghiêm cẩn như người phương
Đông tâm lành. Ở chùa không tu như nguời phương Tây tâm ác;
tâm trong sạch,
(tức thanh tịnh)
là cơi Tây phương”. Vi Công bạch:
- “Tại nhà tu
cách nào. Kính xin Đại Sư chỉ dạy”. Đại Sư:
- “Tôi đọc bài
kệ Không tướng, quí vị y theo đó tu như thường có tôi bên
cạnh. Nếu không thực hành đúng, dầu quí vị cạo tóc, vào
chùa, với đạo pháp cũng không ích lợi.” Kệ:
“Tâm b́nh đâu
cần giữ giới,
Hạnh thẳng há
nhọc tu thiền.
Ân, hiếu thảo
phận con hiền,
Nghĩa, anh em
ḥa thân ái.
Nhượng, dưới
trên không tranh căi,
Nhẫn, dứt ác,
hết ưu phiền.
Bền tâm, dùi cây
ra lửa,
Bùn đọng, sẽ trổ
hồng liên.
-------
1.- Sáu sự ham muốn do 6 căn nhiễm với 6 trần: tức gặp
những cảnh thích về: mắt - tai - mũi - lưỡi - thân và ư.
Về 6 cơi trời Dục giới là 6 cảnh tiên trong cơi Dục giới,
cũng gọi Lục dục thiên, Tứ vương thiên, Đao lợi thiên, Tô
dạ ma thiên, Đâu suất thiên, Hoá lạc thiên và Tha hoá tự
tại thiên.
Thuốc đắng bịnh
được giảm thuyên,
Nghịch tai, đúng
lời trung nghĩa.
Hết lỗi liền
sanh trí huệ,
Che tội,
trong dạ chẳng hiền.
Hằng ngày
gắng làm điều thiện,
Thành đạo
không do thí tiền.
Bồ đề hướng
tâm t́m thấy,
Chớ vọng
ngoại cầu hảo huyền.
Nghe giảng
trau sửa cần chuyên,
Tây phương
thấy liền trước mắt.”
Phỏng
dịch:
“Tâm
b́nh lặng đâu cần giữ giới,
Hạnh
thẳng ngay há nhọc tu thiền.
Ân, hiếu
thảo phận con hiền,
Nghĩa,
t́nh huynh đệ tương liên hài ḥa.
Nhượng,
thuận thảo, thật thà ưu ái,
Nhẫn,
không gây thiệt hại cho ai.
Bền tâm,
dùi lửa trong cây,
Bùn lầy
lắng đọng nở ngay sen hồng.
Thuốc thật
đắng mới mong hết tật,
Lời thẳng
ngay nghe rất nghịch tai.
Sửa hết
lỗi, trí huệ khai,
Dấu che
tánh xấu c̣n đầy ác tâm.
Hằng ngày
cố gắng làm điều thiện,
Đạo không
chấp lời huyễn hư danh.
Bồ đề do
được tâm thanh,
Đừng nên
vọng ngoại khấn xin Thánh Thần.
Nghe giảng
trau sửa chuyên cần,
Chỉ trong
chớp mắt được gần Tây phương”.
- “Thiện tri
thức! Tóm lại, quí vị nên y theo kệ tu hành, sẽ thấy tánh
minh liền thành Phật đạo. Thời gian không chờ đợi, quí vị
nên giải tán, tôi về Tào Khê, nếu vị nào c̣n điều chi nghi
ngờ, xin đến hỏi”.
Bấy giờ, Thứ
Sử, quan viên tại hội, thiện nam tín nữ, thảy đều tỉnh
ngộ, đồng nghiêm cẩn tuân hành lời Đại Sư dạy.
IV.- ĐỊNH HUỆ
THIỀN ĐỊNH VÀ TRÍ HUỆ
--
*** --
Đại Sư giảng:
- “Thiện tri
thức! Pháp môn của tôi dùng Định Huệ làm gốc. Quí vị chớ
lầm cho Định và Huệ hai thể khác nhau. Định Huệ vốn một
không phải hai. Định là thể của Huệ, Huệ là dụng của Định,
lúc Huệ, Định nơi Huệ, khi Định, Huệ tại Định. Hiểu rơ
nghĩa, nên học Định và Huệ cùng một lúc. Người học đạo
không nên nghĩ Định trước phát Huệ sau, hay ngược lại, Huệ
trước mới phát Định. Hiểu như vậy là lầm giáo pháp có 2
thể khác biệt. Miệng nói lời lành, ḷng chẳng lành tức
không Định Huệ, như vậy Định Huệ chẳng đồng. Nếu ḷng và
miệng đều lành, trong ngoài như một, Định Huệ quân b́nh”.
- “Thiện tri
thức! Tu hành cần giác ngộ chẳng do tranh luận. Nếu tranh
luận về Định Huệ, phân biệt Định trước hay Huệ trước vẫn
c̣n mê, không dứt hơn thua liền tăng chấp ngă, lạc vào bốn
tướng ”*
(xin xem lời giải ở cuối phẩm)
- “Thiện tri
thức! Định Huệ giống thứ ǵ? Thí dụ như ngọn đèn và ánh
sáng, có đèn mới sáng, không đèn th́ tối, đèn là gốc của
sáng, tức thể của sáng; sáng là kết quả và công dụng của
đèn. Tên tuy hai, nhưng thể chỉ một, pháp Định Huệ cũng
vậy”.
- “Thiện tri
thức! Tôi giảng về Nhứt hạnh Chánh Định, có nghĩa trong
các thời gian đi, đứng, nằm, ngồi, đều giữ ḷng thẳng ngay.
Kinh Tịnh Danh chép: “Ḷng thẳng ngay là đạo tràng, là
Tịnh độ.” Chớ nên miệng nói tu Nhứt hạnh Chánh định mà
không giữ ḷng ngay thẳng. Trước ngoại cảnh ḷng phải
thẳng ngay, không chấp mắc”.
- “Thiện tri
thức! Người mê chấp h́nh tướng, chấp cách tu Nhứt hạnh
Chánh định, hiểu lầm là ngồi yên giữ ḷng không khởi ư
niệm. Hiểu và tu như vậy khác ǵ loại vô t́nh, vô tri giác,
gây chướng ngại cho đạo!”
- “Thiện tri
thức! Đạo phải thông suốt, đừng cho ngưng trệ. Tâm không
chấp cảnh, đạo lưu thông, nếu tâm chấp dính ngoại cảnh là
tự trói buộc. Nếu bảo ngồi chẳng động là tu Chánh định,
th́ sao ngài Xá Lợi Phất ngồi lặng im trong rừng bị Đức
Duy Ma Cật quở?”
- “Thiện tri
thức! Có người dạy ngồi yên soi xét ḷng, ngưng nghĩ nhớ,
không đi đứng, không cử động, cho đó là công phu, người mê
không hiểu vội làm theo thành điên cuồng. Hạng người này
rất nhiều, dạy nhau như vậy thật sai lầm!”
- “Thiện tri
thức! Xưa nay chánh giáo không phân đốn tiệm,
(có nghĩa mau, chậm)
do tâm người có sáng có mê. Người mê tu tiệm, kẻ sáng tu
đốn, nếu biết tâm, thấy được tánh th́ không c̣n phân biệt
đốn hay tiệm, cho nên tạm giả danh gọi đốn tiệm”.
- “Thiện tri
thức! Pháp môn của tôi lập Không niệm làm tông,
Không tướng làm thể, Không trụ làm gốc:
- Không
niệm, đang niệm mà chẳng chấp niệm,
- Không
tướng, đối cảnh không chấp cảnh,
- Không
trụ, trước các sự việc lành, dữ, tốt, xấu, với kẻ thù,
người thân, lời châm chích, lúc tranh luận, đều không chấp
giữ, không nuôi ư hơn thua gây oán, trả thù”.
- “Thiện tri
thức! Đối cảnh tâm không nhiễm, tức không niệm. Từ niệm
tưởng, tâm không bị cảnh làm loạn động. Nếu ép buộc tâm
dứt mọi suy tư để được giải thoát, thật sai lầm. Nếu ngưng
các tư tưởng, dứt niệm tưởng là chết nhưng phải đầu sanh
nơi khác. Người học đạo phải rơ điều đó. Nếu chưa thấu
hiểu yếu lư Phật pháp mà truyền dạy người khác thật tai
hại. Ḿnh lầm đành chịu, sợ người mê không hiểu chơn lư,
nhạo báng kinh Phật, tội lỗi vô cùng, nên lập không niệm
làm tông”.
- “Thiện tri
thức! Người mê miệng nói thấy tánh nhưng khi đối cảnh tâm
c̣n loạn động, khởi tà niệm, do đó tất cả phiền năo, vọng
tưởng liền sanh. Tánh ta vốn trong sạch không thể t́m được
vật ǵ trong đó. Nếu cho rằng có thể t́m được vật ǵ trong
chơn tánh rồi đem phân tách, luận bàn điều họa việc phước
là nguyên nhân khởi tâm trần lao tà kiến. V́ thế pháp môn
này lập không niệm làm tông”.
- “Thiện tri
thức! Không để ngoại cảnh ảnh hưởng đến tâm, ḷng luôn
giữ b́nh lặng, an nhiên tự tại, là không tướng; chẳng chấp
các cảnh, thể tánh thanh tịnh, nên dùng không tướng làm
thể ”.
- “Thiện tri
thức! Nếu niệm tưởng: niệm trước, c̣n nhớ các việc đă qua;
đang niệm, ḷng suy nghĩ chuyện hiện tại; sẽ niệm, tính
toan điều sắp tới; liên tục như vậy liền bị trói buộc.
Trong các thời gian, đối cảnh ḷng không chấp mắc, không
dính cảnh, sẽ không bị trói buộc, nên lấy không trụ làm
gốc”.
- “Thiện tri
thức! không niệm là chẳng nghĩ tưởng vật ǵ! không nghĩ ǵ
về ghét ưa hay so sánh, do đó tâm không phiền năo. Niệm là
nghĩ, tưởng, luôn nghĩ nhớ chơn như bổn tánh. Chơn như là
thể của niệm, niệm tức công dụng của chơn như. Tánh chơn
như là gốc của niệm, không phải niệm ở mắt, tai, mũi, lưỡi.
V́ thế tánh chơn như khởi niệm tưởng, nếu không c̣n tánh
chơn như th́ mắt, tai, màu sắc, âm thinh đều hoại diệt ”.
- “Thiện tri
thức! Tánh chơn như khởi niệm tưởng, 6 căn tuy thấy, nghe,
hay hiểu biết mà không nhiễm các cảnh, do đó chơn tánh
được an nhiên tự tại. Kinh chép: “Nên khéo phân biệt
tường tận các cảnh tướng, bổn tánh thanh tịnh chẳng động”.
-- ***
--
Giải
thích tứ tướng trang 42
* Tứ tướng:
1.-
Ngă tướng:
tướng ḿnh.
2.- Nhơn tuớng:
tướng người.
3.- Chúng sanh tướng:
tướng chúng sanh.
4.- Thọ giả tướng:
tướng thọ mạng (đời sống)
V.- TỌA THIỀN
NGỒI THIỀN
-- *** --
Đại Sư giảng:
- “Thiện tri
thức! Phương pháp môn ngồi thiền này không để tâm vướng
mắc, cũng không chấp thanh tịnh, cũng chẳng phải không
động. Nếu chấp vào tâm, tâm vốn vọng. Biết tâm như huyễn
giả nên không chấp dính. Nếu chấp vào thanh tịnh, tánh
người vốn thanh tịnh, bởi vọng niệm khởi tánh chơn như mới
bị che khuất; dứt vọng tưởng, tánh tự nhiên thanh tịnh”.
- “Thiện tri
thức! Khởi tâm chấp về thanh tịnh liền sanh ra vọng tưởng
về thanh tịnh. Vọng tưởng vốn không xứ sở nhất định, nếu
để tâm dính mắc vào vọng tưởng là sai lầm. Thanh tịnh vốn
không h́nh tướng, nếu lập ra h́nh tướng tu tịnh rồi cho đó
là công phu tu tịnh, hiểu biết như vậy tự che lấp tánh
chơn như, liền bị chính chỗ thanh tịnh đó trói buộc”.
- “Thiện tri
thức! Tu hạnh bất động là không khởi vọng niệm, khi nh́n
người không cần t́m biết những việc phải quấy, lành dữ,
lỗi lầm của họ, do đó tánh ḿnh không động”.
- “Thiện tri
thức! Người mê thân tuy không động, nhưng khi thảo luận
lại khen phải, chê quấy, kể lỗi lầm, tốt xấu của người
khác, như vậy trái với lẽ đạo. Nếu chấp nơi tâm, dính vào
thanh tịnh đạo bị che khuất”.
- “Thiện tri
thức! Sao gọi ngồi thiền? Chẳng có ǵ làm trở ngại được
pháp môn này, nếu trước cảnh thiện ác bên ngoài ḷng không
khởi niệm tưởng, giữ được an nhiên, thanh tịnh, đó là
ngồi. Tánh bên trong không loạn động gọi thiền”.
- “Thiện tri
thức! Sao gọi thiền định? Không nhiễm ngoại cảnh là
thiền, ḷng không loạn động tức định. Nếu
chấp cảnh, tâm liền loạn, dứt cảnh, tâm được thanh tịnh.
Tánh ta vốn sẵn thanh tịnh, sẵn an định, v́ thấy cảnh liền
nhiễm cảnh nên sanh loạn động. Nếu thấy ngoại cảnh mà tâm
không loạn động mới thiệt chơn định”.
- “Thiện tri
thức! Ngoài không nhiễm cảnh tức thiền, trong tâm
không loạn là định. Ngoài thiền trong định,
gọi thiền định. Kinh Bồ Tát giới chép: “Bản tánh
vốn tự nhiên thanh tịnh”.
- “Thiện tri
thức! Trong mỗi niệm tưởng tự thấy bổn tánh thanh tịnh, tự
tu, tự hành, tự thành Phật đạo ”.
-- ***
--
ĂN NĂN ĐIỀU LỖI
-- *** --
Bấy giờ, nhân
sĩ, thứ dân thuộc Quảng Châu, Thiều Châu, cùng các địa
phương khác, chen nhau vào núi nghe pháp, Đại Sư lên đàn,
giảng:
- “Thiện tri
thức! Quí vị đến đây nghe giảng, nên hiểu, tu phải khởi từ
trong tâm, bất cứ lúc nào tâm cũng giữ thanh tịnh; luôn
trau sửa tánh hạnh, để thấy được pháp thân, nhận được Phật
tâm rồi tự độ, tự răn. Được vậy, việc đến đây của quí vị
mới lợi ích”.
- “Thiện tri
thức! Quí vị từ xa đến trong một hội như thế này, đều cùng
có duyên. Vậy, quí vị hăy quỳ xuống. Trước hết, tôi truyền
năm phần chơn hương của pháp thân trong tự tánh, kế đó,
pháp sám hối không tướng”.
Cả thảy đồng
quỳ. Đại Sư dạy:
- “Thứ
nhứt: Giới hương, tức tâm không nghĩ quấy,
không tính điều ác, không ganh ghét, không tham sân, không
mưu hại ai, gọi giới hương”.
- “Thứ nh́:
Định hương, khi thấy các cảnh lành dữ tự tâm không
loạn động, đó, gọi định hương”.
- “Thứ ba:
Huệ hương, tâm không bị ngăn che, luôn dùng trí huệ
chiếu soi tánh ḿnh, tránh gây điều ác. Thực hiện việc
lành, ḷng không nghĩ điều ơn, nghĩa; kính trên nhường
dưới, thương xót kẻ côi cút nghèo khó, gọi huệ hương”.
- “Thứ tư:
Giải thoát hương, ḷng không nhiễm ngoại cảnh,
chẳng nghĩ điều lành, không tưởng việc ác, lúc nào cũng
thông suốt, an nhàn, tự tại, gọi giải thoát hương”.
- “Thứ năm:
Giải thoát tri kiến hương, ḷng tuy không vướng mắc
ngoại cảnh, không tưởng nghĩ điều lành việc ác, nhưng cũng
đừng ép dứt tuyệt các tư tưởng để rơi vào cơi không. Nên
cố gắng học rộng nghe nhiều, phải thấy chơn tâm, thông đạt
đạo lư của chư Phật, nên vào đời giúp người cứu vật, không
ngă, không nhơn, ḷng không động, luôn hướng về Chánh giác,
gọi giải thoát tri kiến hương”.
- “Thiện tri
thức! Hương này xông lên từ ḷng ḿnh, tức Bổn giác Chơn
như, t́m bên ngoài vô ích”.
- “Thiện tri
thức! Giờ đây, tôi truyền thêm cho quí vị pháp Sám hối
không tướng, pháp này tiêu diệt hết tội lỗi ba đời, cho ba
nghiệp: Thân - Khẩu - Ư được thanh tịnh”.
- “Thiện tri
thức! Quí vị hăy cùng một lượt nguyện theo tôi:
- “Đệ tử
chúng con, từ những thời gian trước đến nay, và sau này,
lúc nào cũng nguyện không để ḷng bị nhiễm sự u mê, ngu
muội. Tất cả những ác nghiệp, tội lỗi, do u mê, ngu muội
gây ra từ những thời gian trước, đến nay, thảy đều sám hối,
nguyện một lúc tiêu diệt, vĩnh viễn không khởi lại.”
- “Đệ tử
chúng con, từ những thời gian trước đến nay, và sau này,
lúc nào cũng nguyện không để ḷng bị nhiễm sự kiêu căng,
dối trá. Tất cả tội lỗi do ác nghiệp kiêu căng, dối trá,
gây ra từ những thời gian trước, đến nay, thảy đều sám hối,
nguyện một lúc tiêu diệt, vĩnh viễn không khởi lại ”.
- “Đệ tử
chúng con, từ những thời gian trước, đến nay, và sau này,
lúc nào cũng nguyện không để ḷng bị nhiễm sự ganh ghét,
tật đố. Các tội do nghiệp ác ganh ghét, tật đố gây ra từ
những thời gian trước, đến nay, thảy đều sám hối, nguyện
một lúc tiêu diệt, vĩnh viễn không khởi lại ”.
- “Thiện tri
thức! Trên đây là Sám hối không tướng. Sao gọi Sám?
Sao gọi Hối? Sám là sám tội lỗi trước, từ trước nếu
có các tội ác u mê, kiêu dối, ganh ghét, thảy đều sám hết,
vĩnh viễn chẳng khởi lại, đó là Sám”.
- “Hối
là ngăn ngừa các lỗi sau của ḿnh. Từ nay đă giác ngộ, tất
cả tội lỗi đều đoạn dứt vĩnh viễn, không gây lại, đó là
Hối, gọi Sám Hối. Người đời mê tối, chỉ biết ăn
năn các tội trước, không biết ngăn ngừa lỗi sau. V́ chẳng
hối nên tội trước không diệt hết lỗi sau sanh thêm, sao
gọi sám hối được?”
- “Thiện tri
thức! Đă sám hối xong, tôi truyền cho quí vị “Bốn điều thệ
nguyện lớn”
(4 đại nguyện của các bậc tu học):
- “Tự tâm
chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”.
- “Tự tâm
phiền năo vô lượng thệ nguyện đoạn”.
- “Tự tánh
pháp môn vô tận thệ nguyện học”.
- “Tự tánh
vô thượng Phật đạo thệ nguyện thành”.
- “Thiện tri
thức! Tôi há chẳng giảng chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,
như thế không phải Huệ Năng độ. Gọi tâm chúng sanh
là tâm tà mê, tâm vọng dối, tâm ganh ghét, tâm ác độc. Các
tâm như thế gọi tâm chúng sanh, phải dùng tánh ḿnh
tự độ, đó là chơn độ. Sao gọi dùng tánh ḿnh tự độ? Có
nghĩa các chúng sanh, tức các tánh xấu trong tâm như: tà
kiến, phiền năo, mê si... phải đem chánh kiến
(sự thấy, sự hiểu biết chơn chánh)
hóa giải, trừ
dứt. Đă có chánh kiến, nên dùng trí bát nhă
(trí huệ sáng suốt)
giải trừ các chúng sanh mê si, tham vọng. Ḿnh phải độ lấy
ḿnh. Tà đến dùng chánh độ, mê đến đem ngộ độ, ngu đến lấy
trí độ, ác đến mượn lành độ. Độ như thế gọi độ chơn
chánh”.
- “Thiện tri
thức! Tất cả phiền năo không kể xiết đều thề nguyện bỏ hết,
tức dùng trí Bát Nhă của tánh ḿnh ngăn ngừa ḷng nghĩ
tưởng giả dối. Đó, gọi độ chơn thật”.
- “Thiện tri
thức! Tất cả pháp môn không cùng tận, đều thề nguyện học,
tự ḿnh phải thấy tánh, thường xuyên tu hành chánh pháp,
đó, gọi học chơn chánh”.
- “Thiện tri
thức! Phật đạo cao thâm thề nguyện tu đến thành công, tức
phải thường hạ tâm, khiêm tốn, tu hành chánh pháp, trừ bỏ
mê lẫn giác, liền sanh trí bát nhă, dứt chơn lẫn vọng, tức
khắc thấy Phật tánh. Đó, gọi Phật đạo thành. Nên cố
gắng tu theo nguyện lực này”.
- “Thiện tri
thức! Nay đă phát 4 điều thệ nguyện lớn, tiếp theo tôi
truyền cho quí vị lời răn dạy về 3 phép qui y không tướng:
- Qui y giác
là lưỡng túc tôn,
- Qui y
chánh tức ly dục tôn,
- Qui y
tịnh gọi chúng trung tôn”.
- “Thiện tri
thức! Từ nay, quí vị hăy tôn xưng chơn tánh giác ngộ của
ḿnh là Thầy, không qui y tà ma, ngoại đạo. Phải dùng tánh
tam bảo,
(ba đức quí báu)
để chứng minh chơn tánh của ḿnh”.
- “Thiện tri
thức! Nương tam bảo của tánh ḿnh:
- Phật
nghĩa giác, là tánh giác ngộ.
- Pháp
là chánh, tức tánh chơn chánh.
- Tăng
gọi tịnh, gọi tánh thanh tịnh”.
- “Thiện tri
thức! Tâm ḿnh khi nương theo tánh giác ngộ, tà mê không
sanh, ḷng ít ham muốn, thường biết sống giản dị, rời xa
tiền tài, sắc dục, đó, gọi lưỡng túc tôn”.
- “Thiện tri
thức! Tâm ta nương theo chánh, những nhận định, phán xét
các sự việc chẳng sai lầm, do đó không sanh tà kiến, không
tà kiến liền hết nhơn ngă, dứt tuyệt cao ngạo, tham ái,
chấp mắc, đó, gọi ly dục tôn”.
- “Thiện tri
thức! Tâm ta nương theo tánh thanh tịnh, trước các cảnh
trần lao, ái dục, ham muốn... không nhiễm mắc, đó, gọi
chúng trung tôn”.
- “Thiện tri
thức! Tu các hạnh này, nương theo chơn tánh của ḿnh, nên
gọi tự qui y”.
- “Thiện tri
thức! Người đời không thấu hiểu, ngày đêm luôn khoe tôi đă
thọ giới tam qui, nhưng chẳng biết rơ lư qui y. Nếu qui y
Phật, vậy Phật ở đâu? Không thấy Phật nương vào đâu mà
qui? Cho rằng qui y Phật mà không tu theo tánh giác ngộ,
lời khoe đó thành giả dối”.
- “Thiện tri
thức! Quí vị nên suy nghiệm, tự xét cho thông suốt, chớ
hiểu lầm. Kinh văn dạy rơ ràng, qui y Phật tại tánh chớ
không dạy qui y Phật nơi nào khác. Phật tại tánh chẳng
qui, chẳng y, nếu t́m bên ngoài không gặp Phật th́ qui y
với ai? Rốt lại không chỗ nương tựa”.
- “Thiện tri
thức! Nay đă giác ngộ, quí vị nên qui y tam bảo tại tâm,
bên trong điều phục tâm tánh, bên ngoài cung kính tất cả,
đó, gọi qui y tại tâm”.
- “Thiện tri
thức! Qui y tam bảo xong, quí vị nên lắng tâm nghe tôi
giảng Phật một thể ba thân trong tự tánh, khiến quí vị rơ
ba thân, liền được thấy tánh”.
- “Thiện tri
thức! Quí vị nguyện theo tôi:
- “Từ sắc
thân qui y Thanh tịnh Pháp thân Phật“,
- “Từ sắc
thân qui y Viên măn Báo thân Phật“,
- “Từ sắc
thân qui y Trăm ngàn ức Hóa thân Phật“.
- “Thiện tri
thức! Sắc thân là nhà ở, là quán trọ, không thể qui
được. Nên t́m ba thân Phật trong chơn tánh, ai cũng sẵn có,
chớ mê muội đi kiếm ba thân Như Lai bên ngoài vô ích”.
- “Thiện tri
thức! Sao gọi Thanh tịnh Pháp thân Phật? Người đời
tánh vốn thanh tịnh, muôn sự đều do tánh ḿnh sanh, suy
tính điều ác liền sanh hạnh ác, nghĩ các việc lành được
sanh hạnh lành. Như vậy, những suy nghĩ, các hành động đều
phát xuất từ tánh ḿnh. Ví như bầu trời b́nh thường thanh
lặng, nhựt nguyệt sáng tỏ, nếu bị mây che trên sáng dưới
tối, khi gió thổi mây trôi đi dĩ nhiên trên dưới đều sáng,
cảnh vật hiện rơ. Tánh người đời cũng thường thay đổi như
mây trên trời”.
- “Thiện tri
thức! Trí như mặt trời, huệ như mặt trăng, trí huệ thường
sáng suốt, chỉ v́ tâm bị vướng cảnh bên ngoài, nên mây
vọng niệm che khuất. Nếu gặp thiện tri thức, nghe giảng
giải chánh pháp, tự ḿnh trừ các điều mê vọng, chơn tánh
liền hiện rơ trong ngoài đều sáng suốt. Người thấy tánh
cũng như vậy, đó, gọi Thanh tịnh Pháp thân Phật?”
- “Thiện tri
thức!
Tâm
qui y tự tánh, là qui y chơn Phật. Tự qui y
tức bỏ sạch các điều xấu trong tâm, như: nghĩ tưởng ác,
ganh ghét, nịnh bợ, chia rẽ, ḷng vọng dối, khinh người, ỷ
tài cao khi dể kẻ khác, nhiều tà kiến, kiêu căng cùng các
điều ác. Nên thường xuyên xét lỗi ḿnh, đừng bao giờ phê
b́nh điều hay, tốt, thói hư, tật xấu của người, đó là qui
y tự tánh. Lúc nào cũng khiêm tốn, hạ ḿnh, kính trọng tất
cả liền thấy tánh thông suốt, không bị ngăn che, tức
qui y tự tánh”.
- “Thiện tri
thức! Sao gọi Viên măn Báo thân Phật? Ví như ánh
sáng một ngọn đèn có thể làm sáng tỏ chỗ đă tối ngàn năm,
một trí huệ có thể diệt được muôn đời mê muội”.
- “Thiện tri
thức! Quí vị đừng nghĩ về dĩ văng, việc đă qua không thể
sửa đổi được, hăy hướng về tương lai. Các tư tưởng đều
sáng suốt liền thấy được chơn tánh”.
- “Thiện tri
thức! Điều lành, việc dữ tuy có khác, nhưng chơn tánh
không hai, tánh không hai là thật tánh. Thật tánh không
nhiễm các điều thiện ác, gọi Viên măn Báo thân Phật”.
- “Thiện tri
thức! Tánh khởi một niệm tưởng ác liền mất vạn kiếp nhân
lành. Tánh khởi một niệm tưởng lành, bao nhiêu tội ác đều
dứt, liền chứng quả vô thượng bồ đề. Trong các hoàn cảnh
đều thấy được tánh, không mất chánh niệm, gọi Báo thân
Phật”.
- “Thiện tri
thức! Sao gọi ngàn trăm ức Hóa thân? Nếu không nghĩ
tưởng đến các sự việc, bổn tánh thông suốt. Khởi niệm
tưởng, lo nghĩ, toan tính, gọi biến hóa”.
- “Thiện tri
thức! Trong tâm suy tính điều ác liền hóa địa ngục, nghĩ
việc lành là thiên đường, mưu toan điều độc hại tức sanh
rồng rắn, nghĩ tưởng từ bi thành Bồ Tát, trí huệ tức
thượng giới, ngu si là hạ phương. V́ tánh ḿnh c̣n mê,
biến hóa rất nhiều nên không tỉnh giác được”.
- “Thiện tri
thức! Ví như trong tâm lúc nào cũng khởi niệm ác, luôn
nghĩ tưởng điều hung dữ, tự đi theo con đường độc ác, tối
tăm, nếu hồi tâm hướng thiện, khởi một niệm tưởng lành,
trí huệ liền sanh, gọi tự tánh Hóa thân Phật”.
- “Thiện tri
thức! Pháp thân vốn sẵn đầy đủ, dầu ở thời điểm nào cũng
thấy tánh thông suốt, tức Báo thân Phật. Từ Báo
thân Phật nghĩ tưởng, phát sanh trí huệ, gọi Hóa thân
Phật. Tự giác ngộ, tự tu các công đức trong tánh, gọi
qui y chơn chánh”.
- “Thiện tri
thức! Da thịt là sắc thân, sắc thân là nhà trọ, không thể
gọi qui y nơi sắc thân được. Nếu hiểu rơ ba thân trong tự
tánh, liền thấy Phật tại tánh”.
- “Thiện tri
thức! Tôi có bài tụng vô tướng, nếu thường tụng, nhờ nghĩa
lư trong lời kệ, tội mê tích lũy nhiều kiếp của quí vị
liền tiêu diệt”. Nghe kệ:
“C̣n mê lo
phước quên hành đạo,
Không dè ba
độc xưa nay tạo.
Bố thí cúng
dường phước vô biên,
Hiểu lầm gieo
phước tức là đạo.
Nghĩ rằng
tích phước thay được tội,
Đời sau hưởng
phước tội c̣n nguyên.
Cần trau sửa
tâm, dứt tội duyên,
Đó gọi tự
tánh chơn sám hối.
Ngộ được
thượng thừa môn sám hối,
Bỏ tà hành
chánh tiêu tan tội.
Học đạo, tánh
ḿnh luôn chiếu soi,
Tức cùng chư
Phật đồng một hội.
Tổ truyền đốn
giáo, cứu mê tân,
Nguyện cầu
kiến tánh đồng một cách.
Nếu muốn sau
này thấy pháp thân,
Rời xong pháp
tướng, tâm trong sạch.
Nỗ lực dụng
trí dứt ưu sầu,
Ngưng hết ác
niệm một đời rảnh.
Sớm ngộ
thượng thừa được thấy tánh,
Chấp tay cung
kính chí tâm cầu”.
Phỏng
dịch:
“Người mê
ham phước quên hành đạo,
Măi hiểu lầm
tạo phước là tu.
Cúng dường bố
thí lu bù,
Trong tâm ba
độc tạo từ lâu nay.
Hiểu sai,
tích phước thay được tội,
Đời sau hưởng
phước, tội c̣n nguyên.
Chiếu soi
tâm, dứt ác duyên,
Tự tánh cải
hối, ḷng nguyền ăn năn.
Sớm ngộ
thượng thừa sám tan tội lỗi,
Gần chánh xa
tà tội hết sanh.
Tu hành thấy
tánh tịnh thanh,
Tức cùng chư
Phật liễu minh đồng hàng.
Tổ của tôi
chỉ đàng đốn giáo,
Nguyện những
người học đạo mai sau.
Pháp thân
muốn đặng thấy mau,
Rời xa
pháp tướng
mới hầu tâm an.
Dụng trí huệ
chiếu tan phiền muộn,
Dứt tuyệt ác
niệm, dưỡng thân nhàn.
Thượng thừa
thấy tánh rơ ràng,
Nguyện cầu
tỉnh ngộ Niết Bàn tại tâm”.
- “Thiện tri
thức! Đại Sư tiếp: Quí vị nên tŕ tụng kệ này và y theo tu.
Tụng xong sẽ được thấy tánh. Hành đúng lời tôi chỉ dạy,
dầu cách xa ngàn dậm cũng như thường hiện diện bên tôi,
nhược bằng không tu theo lời dặn này, dầu quí vị ở bên
cạnh tôi, cũng không lợi ích, uổng công cực nhọc từ xa t́m
đến. Xin giă từ quí vị”.
Đồ chúng nghe
pháp đều khai ngộ, cùng nhau vui vẻ tuân hành.
--***--
VII.- CƠ DUYÊN
CÓ DUYÊN VỚI TỔ
-- *** --
Sau khi đắc
pháp tại Huỳnh Mai, Đại Sư về Thiều Châu, thôn Tào Hầu, ít
người hay biết. Chỉ riêng nho sĩ Lưu Chí Lược, đối đăi với
Đại Sư rất cung kính. Chí Lược có người cô xuất gia, tên
Vô Tận Tạng, thường tụng kinh Đại Niết Bàn. Đại Sư nghe
qua liền hiểu rơ diệu nghĩa, nên giảng giải cho ni cô. Ni
cô cầm quyển kinh lại, hỏi chữ. Đại Sư thành thật:
- “Chữ th́
tôi không biết, về nghĩa, xin ni cô cứ hỏi”. Ni cô ngạc
nhiên, bạch:
- “Chữ c̣n
chẳng biết, làm sao Đại Sư hiểu được nghĩa mà giải?” Đại
Sư xác quyết:
- “Diệu lư
của chư Phật chẳng liên quan đến văn tự”.
Ni sư kinh
ngạc, liền truyền rao khắp các nhân sĩ tuổi cao đức trọng
trong xóm hay:
- “Đại Sư là
bậc tri thức, đạo đức cao thâm, chúng ta nên thỉnh Ngài ở
lại để được học hỏi và cúng dường”.
Nhân đó,
người cháu 4 đời của Ngụy Vũ Hầu,
(tức Tào Tháo, một nhân vật quan trọng thời Tam Quốc)
tên Tào Thúc Lương, hiệp với cư dân trong vùng, cùng nhau
đến tham lễ Đại Sư.
Bửu Lâm Cổ Tự
đă hoang phế v́ binh lửa từ cuối đời Tùy, bấy giờ chỉ c̣n
nền cũ, dân chúng chung nhau, cùng góp công, của, xây dựng
lại. Chẳng bao lâu, nơi đó, hoàn thành một ngôi chùa khang
trang, tráng lệ. Lục Tổ Đại Sư được thỉnh về trụ tŕ.
Mới hơn chín
tháng, đảng ác lại t́m đến, Đại sư phải ẩn ḿnh trong núi
phía trước chùa, chúng phóng hỏa đốt rụi cây cỏ quanh núi,
Đại Sư chen ḿnh vào kẹt đá, tránh lửa. Nay dấu đầu gối và
lằn áo bố của Ngài c̣n hằn trên đá, nên mới có tên tỵ nạn
thạch. Đại Sư nhớ lời Ngũ Tổ dặn: “Ấp Hoài, ấp Hội
ngưng tàng”, nên Ngài ẩn trú hai nơi này.
Tăng Pháp Hải,
người Khúc Giang, thuộc Thiều Châu, đến:
- “Kính xin
Đại Sư vui ḷng chỉ dạy, thế nào là Tức Tâm tức Phật”?
Đại Sư giải:
- “Niệm tưởng
trước không sanh tức tâm, niệm tưởng sau chẳng diệt tức
Phật. Tạo dựng mọi việc do tâm, rời dứt các cảnh tướng là
Phật. Nếu tôi giải đầy đủ suốt kiếp cũng không hết. Hăy
nghe kệ:
“Tức tâm là
huệ, tức Phật gọi định
Định huệ đồng
hành, ư được thanh tịnh
Học pháp môn
này, do ông tập tánh
Thể Dụng không
sanh, song tu là chánh”.
Pháp Hải nghe
xong, đại ngộ, đọc kệ khen:
“Tâm nguyên vốn
là Phật,
Chưa ngộ tự che
khuất
Rơ được định huệ
nhân,
Song tu, rời các
vật”.
-- *** --
Tăng Pháp Đạt
người Hồng Châu, bảy tuổi xuất gia, thường tụng kinh Pháp
Hoa, đến lễ Đại Sư, đầu không chấm đất.
Đại Sư trách
nhẹ:
- “Lễ đầu không
đến đất, thà đừng lễ, hẳn ông có tâm sự ǵ đây?” Vẻ tự
măn, Pháp Đạt bạch:
- “Tôi tụng Kinh
Pháp Hoa được 3.000 bộ!” Đại Sư:
- “Nếu ông tụng
đến vạn bộ, thông suốt hết ư nghĩa của kinh, nhưng ḷng
vẫn luôn từ tốn, khiêm nhượng, không cho đó là hơn người
mới có thể đi chung đường được với tôi. Nay ông đến đây,
chỉ dựa vào một chút sự nghiệp này đă vội tự phụ, sao chưa
biết lỗi? Nghe kệ đây:
“Lễ, là bỏ tự
kiêu
Đầu sao không
sát đất?
Chấp, ngă, tội
liền theo
Quên công, phước
lớn thật”.
- “Ông tên
chi?“ Đại sư hỏi,
- “Bạch Đại sư,
học nhơn tên Pháp Đạt”. Đại Sư:
- “Ông tên Pháp
Đạt, nhưng chưa từng đạt pháp . Tôi có bài kệ:
“Ông mang
tên Pháp Đạt
Siêng năng tụng
không dứt
Nương theo
tiếng, ê a
Minh tâm gọi
Bồ Tát.
Ông nhọc công
đến nơi
Tôi tùy duyên
giải đáp
Hăy tin Phật
không lời
Hoa sen từ
miệng phát”.
Pháp Đạt nghe
kệ, tạ lỗi và nguyện từ nay về sau sẽ khiêm nhượng, nhún
nhường. Bạch tiếp:
- “Học nhơn
tụng Kinh Pháp Hoa nhưng chưa thông nghĩa lư, trong tâm có
điều c̣n nghi, Đại Sư trí huệ quảng đại, kính xin lược
giải diệu lư của kinh cho tôi được hiểu rơ”. Đại Sư:
- “Này Pháp
Đạt, Pháp tức thông đạt nghĩa lư, mà tâm ông không đạt.
Kinh vốn chẳng có chỗ nghi ngờ, tại ḷng ông tự nghi. Vậy,
ông tụng kinh này lấy ǵ làm tông?” Pháp Đạt bạch:
- “Học nhơn
căn tánh mê muội, từ trước đến nay cứ theo kinh văn mà
tụng, đâu t́m hiểu tôn chỉ”. Đại Sư:
- “Tôi không
biết chữ, ông thử lấy kinh tụng một biến, tôi sẽ giải
thích”.
Pháp Đạt lớn
tiếng tụng, đến phẩm thí dụ, Đại Sư ngăn:
- “Ngưng lại,
kinh này nguyên lai lấy nhân duyên xuất thế làm tông, dầu
nhiều thí dụ cũng không vượt khỏi lư này. Vậy, thế nào là
nhân duyên? Kinh chép: “Chư
Phật Thế Tôn, chỉ v́ đại sự Nhân duyên mà xuất hiện”.
Một việc lớn đó là Tri kiến Phật,
(tức khai mở cho chúng sanh được thấy biết sự cao siêu vi
diệu của chư Phật).
Người đời mê, ngoài chấp tướng, trong chấp không. Nếu đối
với tướng rời tướng, đối với không dứt không, tức trong
ngoài chẳng mê. Hiểu rơ pháp này, tâm liền khai mở, đó gọi
Khai Phật tri kiến ¹. Phật đây nghĩa Giác ngộ, phân ra 4
môn: Khai giác tri kiến
². Thị
giác tri kiến
³. Ngộ
giác tri kiến
⁴ và
Nhập giác tri kiến
⁵ .
Khi nghe giảng khai thị, liền ngộ nhập vào Giác tri kiến,
tức bổn lai chơn tánh xuất hiện. Ông cẩn thận, chớ lầm
hiểu lư kinh, khi nghe đề cập Khai, Thị, Ngộ, Nhập
⁶, vội
cho đó là sự giác ngộ riêng của chư Phật, c̣n chúng ta
không có duyên phần đạt được sự thấy biết ấy. Hiểu như vậy
là chế kinh, diễu Phật. Đă là Phật, dĩ nhiên đủ sáng suốt,
đâu cần khai mở. Nay, ông hăy tin sự thấy biết sáng suốt
đó, chính do từ nơi Tâm của ông, chớ không phải do Phật
nào khác. V́ tâm của chúng sanh do tham ái trần cảnh che
mờ chơn tánh, ngoài bị cảnh vật vấn vương, trong th́ rối
loạn, nên đành chịu cuốn lôi vào biển trần khổ, phải luân
hồi. Cho nên Đức Thế Tôn mới từ Chánh Định khởi, dùng
nhiều phương cách khuyên dạy người đời dẹp ḷng ham muốn,
ngưng dứt việc t́m giác ngộ bên ngoài, được vậy mới đồng
hàng với Phật, nên gọi Khai tri kiến Phật”. Đại Sư
giảng tiếp:
- “Tôi khuyên
ông nên từ tâm ḿnh luôn khai tri kiến Phật. Người
đời tâm tà, mê muội gây tội, miệng lành ḷng ác, tham sân,
tật đố, tự cao, tự đại, xâm nhơn, hại vật, là tự khai
chúng sanh tri kiến. Nếu giữ ḷng chơn chánh thường
sanh trí huệ, chiếu soi tâm ḿnh, ngưng ác làm lành, liền
tự khai tri kiến Phật. Ông nên mỗi niệm tưởng đều
khai tri kiến Phật, chớ Khai tri kiến chúng sanh.
Khai tri kiến Phật,
là xuất thế. Khai tri kiến chúng sanh, tức thế
gian. Nếu ông măi nhọc công cố chấp tụng niệm, cho đó là
công khóa, khác ǵ con trâu Mao tiếc lông đuôi dài của
nó.”
Pháp Đạt bạch:
- “Nếu vậy, học
nhơn chỉ cần rơ nghĩa kinh, khỏi phải nhọc
công tụng niệm sao?”
------
1.- Mở sự thấy biết sáng suốt của Phật. 4.-Tỏ
tánh thấy biết giác ngộ.
2.- Mở tánh thấy biết giác ngộ.
5.- Vào tánh thấy biết iác ngộ.
3.- Chỉ cái tánh thấy biết giác ngộ. 6.-
Mở ra. Chỉ bảo. Bày tỏ. Đắc nhập.
- “Kinh có lỗi
ǵ ngăn trở ông tụng niệm, v́ mê ngộ tại ông, tổn hại hay
ích lợi do ḿnh, miệng tụng tâm hành là chuyển kinh, miệng
tụng tâm không hành tức bị kinh chuyển”.
Nghe kệ:
“Tâm mê, Pháp
Hoa chuyển
Ngộ được, chuyển
Pháp Hoa
Tụng lâu không
hiểu lư
Đối nghĩa tạo
oan gia.
Không niệm,
niệm tức chánh
Có niệm, niệm
thành tà
Có, không,
đều quên hết
Luôn ngồi
bạch ngưu xa”.
Pháp Đạt nghe
kệ liền đại ngộ, bất giác tủi khóc. Bạch:
- “Pháp Đạt
từ xưa đến nay chưa từng chuyển Pháp Hoa mà bị Pháp Hoa
chuyển”. Liền bạch tiếp, Kinh chép: “Các Đại Thanh Văn
cho đến Bồ Tát, đều tận nghĩ cùng suy, vẫn không thể đo
lường được trí sáng suốt siêu việt của chư Phật”, nay
Đại Sư dạy kẻ phàm phu này, chỉ cần tỏ sáng tâm ḿnh, liền
được Khai tri kiến Phật. Điều này, nếu không phải bậc
thượng căn, ắt chẳng khỏi nghi ngờ. Kinh chép 3 xe:
dê, nai, trâu, với bạch ngưu xa,
khác biệt thế nào, nguyện Đại Sư từ bi giải rơ”. Đại Sư:
- “Ư kinh rơ
ràng, tại ông hiểu nghịch nghĩa, các bậc tam thừa không
nghĩ lường được trí của Phật, bởi v́ họ măi suy nghĩ, càng
dụng tâm suy nghĩ lại càng cách xa trí Phật. Phật v́ người
phàm mà thuyết kinh, chớ chẳng phải v́ Phật mà giảng, lư
này người mê không tin, chẳng biết ḿnh đang ngồi trong xe
trâu trắng,
(đă sẵn tánh Phật trong tâm)
lại bỏ ra ngoài đi t́m xe khác. Huống chi kinh chép rơ
ràng: “Chỉ một Phật thừa duy nhứt, không thừa nào khác,
không hai, không ba, cho đến vô số phương tiện, các thứ
nhân duyên, các ngôn từ, các thí dụ”, tất cả cũng chỉ
một Phật thừa. Sao ông không thức tỉnh, 3 xe là giả,
khi xưa tạm mượn tên làm thí dụ. Chỉ một thừa là thật,
hướng dẫn người trần bỏ giả về chơn, sau khi về thật rồi
không c̣n tên nữa. Ông nên rơ, trí hiểu biết, sáng suốt
của Phật là tài sản, là báu vật, đă thuộc về ông, ông có
toàn quyền xử dụng. Ông đừng tưởng của đó thuộc thế hệ
trước, là của cha; cũng không nên nghĩ của đó thuộc đời
sau, là của con; cũng đừng nghĩ là của riêng ông. Hăy bỏ
hết cái tưởng, cái nghĩ, như vậy mới hiểu
nghĩa kinh Pháp Hoa. Từ kiếp này đến kiếp khác, tay chẳng
rời quyển kinh, ngày chí đêm không lúc nào quên tụng niệm”.
Pháp Đạt hiểu
rơ, vui mừng, dùng kệ khen:
“Tụng kinh
ba ngàn bộ
Tào Khê thảy
bỏ luôn
Chưa rành lư
xuất thế
Chịu suốt
kiếp mê cuồng.
Dê, nai, trâu
quyền lập
Sơ, trung,
hậu, sắp tuồng
Nào dè trong
nhà lửa
Vua pháp tại
đây luôn”.
Đại Sư khen:
- “Từ nay về
sau ông được gọi tăng niệm kinh”.
Pháp Đạt từ
lănh hội nghĩa lư sâu kín, không ngưng tụng niệm kinh.
-- ***
--
Tăng Trí
Thông người ở An Phong, Thọ Châu, tụng kinh Lăng Già ước
hơn ngàn biến mà chưa hiểu ư nghĩa ba thân bốn trí, đến lễ
Đại Sư thỉnh cầu giải lư. Đại Sư giảng:
- “Ba thân là:
Thanh tịnh Pháp thân
(tức tánh).
Viên măn Báo thân
(là trí).
Thiên bá ức Hóa thân
(là hạnh).
Nếu rời bổn tánh, giải riêng về ba thân tức có thân mà
không trí. Ông nên rơ, ba thân đều từ nơi tánh sanh, không
phải mỗi thân có tánh riêng, đó là Tứ trí bồ đề.
Nghe kệ:
“Tự tánh đủ
ba thân
Phát sanh
thành bốn trí
Không rời
duyên thấy nghe
Vẫn được vào
Phật vị.
Tôi nay v́
ông giải
Nghe rơ chẳng
c̣n mê
Chớ nhọc công
cầu khấn
Suốt ngày t́m
Bồ đề”.
Trí Thông lại
bạch:
- “Kính xin
Đại sư cho học nhơn được nghe nghĩa bốn trí?“
- “Đă hiểu
ba thân liền rơ bốn trí, sao c̣n hỏi nữa? Nếu
rời ba thân bàn riêng bốn trí, gọi có trí không thân,
nghĩa là có trí trở thành không trí”. Liền đọc kệ:
“Đại viên
cảnh trí, tánh thanh tịnh
B́nh đẳng trí,
tâm không bịnh
Diệu quan sát
trí, thấy không công
Thành sở tác
trí, đồng viên cảnh.
Năm, tám, sáu,
bảy, quả nhân chuyển
Chỉ dùng tên
gọi, không thật tánh
Trong lúc vận
chuyển chẳng nhiễm cảnh
Dầu ở nơi nào
cũng đại định”.
Giải nghĩa:
-
“Như trên chuyển thức thành trí, có nghĩa:
chuyển 5 thức trên thành sở tác trí, chuyển thức
thứ 6 thành diệu quan sát trí, chuyển thức thứ 7
thành b́nh đẳng tánh trí, chuyển thức thứ 8 thành
đại viên cảnh trí. Tuy 6, 7 là nhân chuyển, 5, 8
là quả chuyển, chuyển tên nhưng không chuyển thể.”
Trí Thông
nghe xong, tánh trí liền tỏ ngộ, tŕnh kệ:
“Ba thân vốn
tánh ḿnh
Bốn trí tự
tâm minh
Tâm trí thông
không ngại
Ứng đáp tùy
duyên sinh.
Khởi tu nên sanh
vọng
Lặng yên cũng
không minh
Thấy tánh nhờ Sư
dạy
Hết bị nhiễm ô
danh”.
-- ***
--
Tăng Trí Thường,
người huyện Quí Khê, phủ Tín Châu, xuất gia từ thiếu niên,
chí cầu kiến tánh, một hôm đến tham lễ.
Đại Sư hỏi:
- “Ông từ đâu
đến, muốn cầu việc chi”? Trí Thường bạch:
- “Học nhơn khi
đến Hồng Châu, núi Bạch Phong, lễ Đại Thông Ḥa thượng,
xin ngài giải nghĩa: “Thấy tánh thành Phật,” nhưng
chưa hiểu rơ, nay kính mong Đại Sư chỉ dạy”.
Đại Sư hỏi:
- “Ḥa thượng
giải thích thế nào? Ông thuật lại tôi nghe”.
- “Học nhơn đến
đó chờ hơn ba tháng nhưng chưa được chỉ dạy, bởi nóng ḷng
cầu pháp, đêm nọ một ḿnh học nhơn vào pḥng riêng của Ḥa
thượng thỉnh vấn:
- “Thế nào là
bổn tâm, bổn tánh của tôi?” Ḥa thượng hỏi:
- “Ông có thấy
hư không chăng?” Học nhơn bạch:
- “Dạ thấy”.
Ḥa thượng hỏi:
- “Hư không có
tướng mạo không?” Học nhơn bạch:
- “Hư không vô
h́nh, đâu có tướng mạo chi”. Ḥa thượng:
- “Bổn tánh của
ông cũng như hư không, chẳng thể t́m một vật ǵ trong đó,
gọi chánh kiến,
(tức thấy đúng)
không thể biết
được một vật ǵ trong đó, gọi chơn tri
(tức biết chơn thật).
Không xanh, vàng, dài, vắn, chỉ thấy bổn nguyên thanh tịnh
(tức gốc nguồn trong sạch),
giác thể tṛn sáng, đó, gọi thấy tánh thành Phật, cũng gọi
Như Lai tri kiến”.
- “Học nhơn tuy
nghe giải thích, nhưng c̣n phân vân. Kính xin Đại Sư từ bi
chỉ dạy”. Đại Sư:
- “Ḥa thượng
Đại Thông chưa giảng rốt ráo về tri kiến, tức vấn
đề thấy và biết, nên ông không rơ, tôi chỉ
ông một kệ:
“Chẳng thấy một
pháp, lại chấp không
Như mây dày che
khuất minh mông
Chẳng rơ một
pháp, giữ không biết
Ví như sấm chớp
giữa hư không.
C̣n thấy,
biết nên sanh bối rối
Bởi lầm dùng
phương tiện chưa thông
Ông nên tự xét
mà sửa lỗi
Giữ được chơn
tâm luôn sạch trong”.
Tăng Trí Thường
nghe xong liền ngộ, tŕnh một kệ:
“Vô cớ khởi tri
kiến
Chấp tướng cầu
bồ đề
C̣n mong một
niệm ngộ
Đâu khác lúc
xưa mê.
Tự tánh giác là
thể
Khi chiếu bị đổi
dời
Không vào Tổ Sư
thất
Mờ mịt lạc hai
nơi”
(thấy, biết).
Một hôm, Trí
Thường bạch với Đại Sư:
- “Phật thuyết
Pháp Tam Thừa, sao c̣n dạy tối thượng thừa, đệ tử chưa
hiểu rơ, kính xin Đại Sư hướng dẫn”.Đại Sư giải:
- “Ông nên tự
soi ḷng, đừng chấp cảnh bên ngoài. Pháp vốn không 4 thừa,
v́ tâm tánh người đời có nhiều khác biệt: Thấy, Nghe, Đọc,
Tụng gọi tiểu thừa là c̣n sơ cấp; ngộ pháp hiểu nghĩa là
bực trung; y pháp tu hành tức bực thượng; vạn pháp làu
thông, thấu rơ đầy đủ, ngoại cảnh chẳng nhiễm, không ham
mau đắc, các pháp tướng đều không, gọi tối thượng thừa.
Thừa là thực hành, không phải để tranh căi. Ông nên tự tu,
lúc nào cũng giữ tánh thanh tịnh, tự nhiên như nhiên”.
Trí Thường lễ tạ
và nguyện theo hầu Đại Sư trọn đời.
--***
--
Tăng Chí Đạo,
người Nam Hải, tỉnh Quảng Châu, đến lễ Đại Sư, bạch:
- “Học nhơn từ
xuất gia đă xem kinh Niết Bàn hơn mười lần, nhưng chưa rơ
đại ư, xin Đại Sư từ bi chỉ dạy.” Đại Sư:
- “Chỗ nào ông
chưa rơ?” Chí Đạo bạch:
- “Kinh chép: “Vạn
vật đều vô thường, thuộc về pháp sanh diệt. Khi sanh diệt
dứt, vui nơi tịch diệt ” nên tôi sanh nghi.
- ”Ông nghi chỗ
nào? ” Chí Đạo bạch:
- “Tất cả chúng
sanh đều có 2 thân: sắc thân và pháp thân. Sắc thân vô
thường nên có sanh có diệt. Pháp thân là thường c̣n, nhưng
vô tri vô giác. Kinh chép: “Sinh diệt dứt rồi, vui nơi
tịch diệt”, học nhơn không rơ, có tịch diệt th́ thân
nào được vui. Nếu sắc thân hưởng vui, khi sắc thân bị
diệt, tứ đại tan ră, toàn là khổ, đă khổ th́ không thể gọi
vui được. Nếu pháp thân tịch diệt, tức đồng với loại vô
t́nh, như cây cỏ, ngói, đá, sao hưởng được sự vui? Hơn
nữa, pháp tánh là thể
(thân)
của sanh diệt,
năm uẩn là dụng của sanh diệt. Một thể 5 dụng
(sắc,
thọ, tưởng, hành, thức)
sanh diệt luôn nối tiếp. Sanh là thể khởi ra dụng. Diệt là
thâu dụng trở về thể. Nếu cho rằng có tái sanh như loại
hữu t́nh, không dứt, không diệt. Lại cho rằng chẳng c̣n
tái sanh, nghĩa là vĩnh viễn trở về chỗ tịch diệt như vật
vô t́nh. Nếu vậy, th́ vạn vật đều bị cảnh giới rất hạn chế
của Niết Bàn ngăn trở. Sanh c̣n chẳng được có ǵ mà vui?”
Đại Sư trách:
- “Ông là Thích
tử, sao học tà kiến của ngoại đạo chấp đoạn, chấp thường
rồi nghi ngờ pháp tối thượng thừa của Phật. Theo lời ông,
ngoài sắc thân c̣n có pháp thân, rời sanh diệt cầu tịch
diệt, lại nghĩ Niết Bàn là cảnh thường vui, nơi đó có thân
đang hưởng cái vui ấy, v́ c̣n mê nên khư khư bảo thủ
nghiệp sanh tử, ham cảnh vui của thế gian. Ông nên biết,
Phật v́ người mê nhận lầm ngũ uẩn làm thể tướng của ḿnh,
rồi phân biệt những cảnh vật khác, nhận đó là tướng của
ngoại trần, nên ham sống sợ chết, luôn đổi dời mà không rơ
đó là mộng ảo, hư giả để phải chịu sanh tử luân hồi. Họ
sai lầm, khi lấy cảnh thường lạc của Niết Bàn cho là tướng
khổ, rồi suốt ngày tham cầu viễn vông. Phật thương xót
hạng người này, nên chỉ rơ chơn lạc của Niết Bàn, chốn đó
không giây phút nào có sanh hay có diệt; không c̣n sanh
diệt để trừ, nên cảnh Niết Bàn hiện rơ trước mắt hoàn toàn
an b́nh, thanh lặng. Đối cảnh không khởi tâm suy nghĩ, so
sánh mới thường lạc.Vui này không người thọ dụng, cũng
không người không thọ dụng, th́ do đâu có tên một thể 5
dụng. Huống chi ông nghĩ Niết Bàn ngăn chế, làm muôn vật
vĩnh viễn không sanh, vậy là chế Phật nhạo pháp. Nghe
kệ:
“Cao tột đại
Niết bàn,
Sáng tṛn thường
lặng chiếu.
Người đời: chết
là hết,
Ngoại đạo, bảo
đoạn diệt.
Người tu bên nhị
thừa,
Cho rằng không
tạo tác.
Đều nương theo
t́nh thức,
Sáu mươi hai
kiến chấp.¹
xin xem lời giải cuối phẩm
Tạm lập tên hư
giả,
Đâu phải nghĩa
chơn thật.
Duy những hàng
siêu việt,
Thông đạt không
giữ bỏ.
Hiểu rơ pháp ngũ
uẩn,
C̣n cái ta trong
uẩn.
Luôn hiện
tượng thế gian,
Các sắc tướng
thanh âm.
Tất cả đều
mộng ảo
Không phân
biệt Thánh phàm
Chẳng luận
giải Niết bàn
Hai bên ba
đời dứt.
Thường hay
dùng các căn
Không nghĩ
tướng xử dụng
Thông suốt
tất cả pháp
Chẳng khởi ư
biệt phân
Tận diệt, lửa
thiêu biển
Gió thổi núi
chọi nhau
Niết Bàn chơn
tịch diệt
Gió lửa không
nhiễm vào.
Tôi nay gắng
thuyết ra
Ngộ, liền dứt
tà kiến
Rơ lư chớ
theo lời
Hiểu được ít
phần thôi.”
Phỏng dịch:
“Thể Niết
Bàn tịnh thanh cao tột,
Dụng viên
minh sáng rực hào quang.
Phàm phu
chết, gọi dứt trần gian,
Ngoại đạo
bảo, tiêu tan một kiếp.
Hăy t́m
đọc nhị thừa sẽ biết,
Họ hiểu
rằng vô tác vô vi.
Nhiễm thất
t́nh tâm tánh mê si,
Cộng với
sáu mươi hai tà kiến.
Thảy tạm
giả phô danh mượn tiếng,
Đâu đúng
đường đạo đức chánh chơn.
Duy có
hàng thượng trí cao nhơn,
Tâm thông
suốt không c̣n giữ bỏ.
Ngũ uẩn:
Sắc, Tưởng, Hành, Thức, Thọ,
Cũng cùng
chung ngă tướng vô thường.
Với ngoại
trần sắc tướng vấn vương,
Hiệp thinh
âm, vốn phường quyến rũ.
Tạm b́nh
đẳng mà không hiện hữu,
Rời Thánh
phàm, tâm giữ như như.
Chẳng giải
Niết Bàn, luận thật hư,
Dứt hiện
tại, vị lai, quá khứ.
Dụng sáu
căn tùy duyên ứng xử,
Vẫn an
nhiên, ḷng giữ sạch không.
Tất cả
pháp đều hiểu làu thông,
Tâm sáng
trong ư không phân biệt.
Dầu đáy
biển lửa thiêu khô kiệt,
Dầu gió
bay xoáy núi chạm nhau.
Niết Bàn
tịch diệt thanh cao,
Chơn
thường vắng lặng xiết bao an nhàn.
Tôi giảng
giải rơ ràng chơn lư,
Khuyên nên
dùng đèn trí chiếu soi.
Xem kinh
ngộ lư quên lời,
Mới mong
hiểu biết tạm thời ít thôi”.
Chí Đạo nghe
kệ đại ngộ, vui mừng lễ tạ lui ra.
--
*** --
Hành Tư thiền
sư, sanh quán ở An Thành, phủ Kiết Châu, họ Lưu, nghe giáo
pháp của Lục Tổ ở Tào Khê truyền bá thạnh hành, đến đảnh
lễ, bạch:
- “Hành giả
nên làm việc chi để khỏi phải đặt vào giai cấp tăng lữ?”
Đại Sư hỏi:
- “Ông từ đâu
đến và đă từng làm việc chi?” Hành Tư bạch:
- “Thánh đế
cũng chẳng làm”. Đại Sư hỏi tiếp:
- “Hiện ông
đă lạc vào giai cấp nào?” Hành Tư bạch:
- “Thánh đế
c̣n chẳng làm, đâu c̣n giai cấp mà lạc?”
Đại Sư mến
trọng tài cao hiểu rộng, dạy Hành Tư giữ trách nhiệm
trưởng quản, hướng dẫn các vị tăng.
Ngày nọ, Đại
Sư gọi Hành Tư, dạy:
- “Ông nên
hóa độ một phương, đừng để dứt pháp Đốn giáo”.
Hành Tư đắc
pháp, trở về núi Thanh Nguyên, ở Kiết Châu, hoằng dương
chánh giáo, hoá độ chúng sanh với pháp danh Thiền sư Hoằng
Tế.
-- *** --
Thiền sư Hoài
Nhượng, ở xă Kim Châu, họ Đỗ, đến học đạo với Tung Sơn An
Quốc Sư, nhưng được người khuyên nên đến Tào Khê tham kiến
Đức Lục Tổ. Hoài Nhượng đến lễ.
Đại Sư hỏi:
- “Ông ở nơi
nào đến?” Hoài Nhượng bạch:
- “Học nhơn
từ Tung Sơn đến”. Đại Sư hỏi:
- “Vậy, ông
đem vật chi đến đây?” Hoài Nhượng bạch:
- “Nói một
vật là không trúng”. Đại Sư:
- “Có phải
chờ đến chứng đắc mới được chăng?” Bạch:
- “Tu chứng
chẳng phải là không, ô nhiễm th́ chẳng được”.
Đại Sư khen:
- “Chỉ chẳng
ô nhiễm chỗ chư Phật hộ niệm, ông đă như thế, tôi cũng như
vậy. Đức Bát Nhă Đa La ở Tây thiên có lời sấm: “Dưới
chân ông sẽ hiện ra một con ngựa tơ mạnh mẽ đạp chết người
trong thiên hạ, đó là ứng tại tâm ông, chớ nên vội nói
”
(ám chỉ về Mă Tổ sau này).
Hoài Nhượng thiền sư liền suốt thông, ở lại hầu hạ Đại Sư
suốt 15 năm. Sau này Hoài thiền sư đến Nam Nhạc mở rộng
Thiền Tông.
--
*** --
Thiền sư
Huyền Giác, họ Đới, ở phủ Ôn Châu, Vĩnh Gia, lúc trẻ đă
học Kinh Luận, làu thông pháp môn Chỉ Quán của tông Thiên
Thai. Nhân xem Kinh Duy Ma Cật tâm được sáng tơ. Ngày nọ
t́nh cờ gặp đệ tử của Lục Tổ là Thiền sư Huyền Sách, hai
vị cùng nhau đàm luận rất tương đắc. Khi nghe Thiền sư
Huyền Giác luận bàn giáo lư thích hợp với tông chỉ của các
vị Tổ sư, Thiền sư Huyền Sách mới hỏi:
- “Chẳng hay
nhân giả đắc pháp với Thầy nào?”
Huyền Giác
đáp:
- “Tôi chỉ
xem kinh Phương Đẳng và các luận, theo tôi hiểu, muốn tu
phải có thầy chỉ dạy. Sau này nhờ đọc kinh Duy Ma Cật biết
rơ tông Phật tâm, nhưng chưa có thầy chứng minh”. Huyền
Sách bảo:
- “Từ đời
Phật Oai Âm Vương về trước, tự tu, tự ngộ th́ được, nhưng
sau này, không có thầy truyền mà tự ngộ là ngoại đạo”.
Huyền Giác thưa:
- “Nếu vậy,
xin nhân giả vui ḷng ấn chứng”.
Huyền Sách
chối từ:
- “Sự hiểu
biết của tôi c̣n kém, ở Tào Khê có Lục Tổ, được Phật tử
bốn phương ngưỡng phục, nhân giả nên đến đó thọ pháp. Nếu
thuận, chúng ta đồng hành”.
Hai vị thiền
sư đến Tào Khê vào lễ Lục Tổ, Huyền Giác đi 3 ṿng rồi
chống tích trượng đứng. Đại Sư thân mật trách:
- “Phàm là Sa
môn phải giữ đầy đủ ba ngàn oai nghi, 8 vạn tế hạnh. Đại
đức từ phương nào đến đây mà tự kiêu vậy?”
Huyền Giác
nghiêm trang bạch:
- “Sanh tử là
việc lớn, vô thường qua quá mau.” Đại Sư hỏi:
- “Sao chẳng
nhận lư không sanh, để liễu kết gốc không mau?” Huyền Giác
bạch:
- “Thể của
tánh vốn không sanh, đâu c̣n mau hay không mau”. Đại Sư
khen:
- “Đúng vậy!
Thật như vậy”. Bấy giờ Huyền Giác mới dùng đủ oai nghi lễ
lạy. Phút chốc, xin cáo từ. Đại Sư hỏi:
- “Sao về mau
vậy?” Huyền Giác bạch:
- “Bổn tánh
tự nhiên chẳng động, làm ǵ có chậm, hay mau?” Đại Sư hỏi
lại:
- “Ai biết
chẳng động?” Huyền Giác bạch:
- “Nhơn giả
tự sanh phân biệt”. Đại Sư khen:
- “Đại đức đă
đạt được ư không sanh”. Huyền Giác hỏi lại:
- “Không sanh
há lại dụng ư sao?” Đại Sư đáp:
- “Không dùng
ư lấy chi để phân biệt?” Huyền Giác bạch:
- “Phân biệt
cũng không khởi ư”. Đại Sư:
- “Hay lắm!
Hăy lưu lại đây một đêm”.
Thời ấy,
Thiền sư Huyền Giác được người đời xưng tụng Nhứt Túc
Giác
(người giác ngộ được mời ở với Tổ một đêm).
Về sau,
Thiền sư Huyền Giác trước tác bài ca Chứng Đạo, truyền bá
rất thạnh hành. Thiền sư Nhứt Túc Giác được triều đ́nh sắc
phong Vô Tướng hay Thiền Sư Chơn Giác.
-- ***
--
Thiền sư Trí
Hoàng sau khi tham lễ Ngũ Tổ về, tự cho đă đắc pháp thiền
định chánh thọ, ngồi thiền trong am liên tiếp 20 năm,
không gián đoạn. Đệ tử của Lục Tổ là Huyền Sách, du phương
đến Hà Sóc, nghe danh Trí Hoàng lập am, đến hỏi:
- “Sư làm ǵ
nơi đây?” Trí Hoàng đáp:
- “Nhập định”.
Sư Huyền Sách hỏi:
- “Trong lúc
Sư nhập định có tâm nhập hay vô tâm nhập, nếu không tâm mà
nhập th́ tất cả loại vô t́nh, cây cỏ gạch ngói cũng đều
được định. Nếu có tâm nhập, tất cả loại hữu t́nh,
(hàm thức chuyển động)
cũng đắc định”. Trí Hoàng:
- “Chính lúc
nhập định tôi chẳng thấy tâm có ư thức hay không ư thức”.
Sư Huyền Sách:
- “Thấy có,
hay không là thường định, sao được gọi xuất, nhập? Nếu có
xuất, nhập tức không phải đại định”.
Sư Trí Hoàng
không đáp được, giây lâu hỏi:
- “Thầy nối
pháp của vị nào vậy?” Sư Huyền Sách đáp:
- “Thầy tôi
Lục Tổ, ở Tào Khê”. Sư Trí Hoàng hỏi:
- “Lục Tổ dạy
pháp Thiền định thế nào?” Sư Huyền Sách:
- “Thầy tôi
dạy: “Thiền Định là giữ tánh luôn trong sạch, thanh lặng,
toàn sáng, thể, dụng như như, 5 uẩn vốn không, 6 trần
chẳng có, không ra, không vào, chẳng định, chẳng loạn.
Tánh Thiền không ở một chỗ nhứt định, rời cả ư thiền. Tánh
thiền không sanh, dứt ư tưởng về nơi sanh ra thiền. Tâm
như hư không nhưng chẳng tưởng nghĩ, đo lường về hư không”.
Sư Trí Hoàng
nghe sư Huyền Sách thuyết giải như vậy, liền đến xin yết
kiến Lục Tổ. Đại Sư hỏi:
- “Nhân giả ở
đâu đến?”
Sư Trí Hoàng
thuật các việc trước. Đại Sư ân cần giải thích:
- “Thật như
những lời ấy. Ông nên giữ tâm như hư không, chẳng chấp vào
không, ứng dụng thông suốt, động tịnh tâm không khởi, phàm
Thánh đều quên, tâm năng tâm sở đều dứt, tánh tướng như
như, lúc nào cũng định”.
Đại Sư thương
từ xa đến nên hết ḷng chỉ dẫn, nhờ đó Trí Hoàng đại ngộ,
rồi nghĩ lại chỗ sở đắc của ḿnh trong 20 năm qua không
c̣n chút ảnh hưởng ǵ. Đêm ấy, sĩ dân Hà Bắc nghe trên
không trung có tiếng: “Thiền sư Trí Hoàng ngày nay đắc
đạo”. Sau đó, Trí Hoàng lễ tạ, về Hà Bắc khai hoá tứ
chúng. ¹
-- ***--
Có vị tăng
hỏi Đại Sư:
- “Ư chỉ của
Sư Huỳnh Mai người nào đắc?” Đại Sư đáp:
- “Người hội
Phật pháp đắc”. Vị tăng lại bạch:
- “Ḥa thượng
đắc chăng?” Đại Sư khiêm nhượng:
- “Tôi không
hội Phật pháp”.
-- *** --
Ngày nọ, Đại
Sư muốn giặt Pháp y nhưng chưa t́m được suối trong. Nhân
thấy sau chùa lối năm dậm, núi rừng sầm uất, thanh khí
xoay quanh, Đại Sư chống tích trượng xuống đất, mạch nước
theo tay vọt lên, khoảnh khắc thành ao. Đại Sư qú gối
giặt áo. Nơi vồ đá bỗng xuất hiện một vị tăng, đến lễ bái
và bạch:
- “Tôi tên
Phương Biện, người Tây Thục, khi trước gặp Tổ Đạt Ma ở Nam
Thiên trúc, Ngài dặn: “Phương Biện, hăy đến nước đại
Đường, Chánh pháp nhăn tạng và Tăng già lê ² của Đại Ca
Diếp đă truyền đến đời thứ 6 tại Thiều Châu, Tào Khê. Ông
nên đến đó chiêm lễ”. Phương Biện từ xa đến, tâm
nguyện thấy Y Pháp của Thầy tôi ”.
Đại Sư đưa
cho xem, rồi hỏi:
- “Thượng
nhơn khéo về nghề chi?” Phương Biện bạch:
- “Chuyên về
đắp tượng”. Đại Sư chỉnh sắc:
- “Ông thử
đắp tượng tôi xem”.
Phương Biện
bối rối, vài hôm sau mới đắp thành chơn tượng, cao 7 tấc,
trông rất khéo. Đại Sư cười:
- “Ông chỉ
biết đắp tượng tánh, chẳng biết Phật tánh”. Đại Sư duỗi
tay ṿ đảnh Phương Biện, thân mật dạy:
- “Hăy làm
việc phước điền ở cơi người và cơi trời cho lâu dài”. Đại
Sư lấy áo đưa cho Phương Biện để đáp công. Phương Biện
chia áo làm 3, một, trang bị đồ tượng; một,
giữ riêng;
một chôn xuống đất và nguyện:
------
1.- Bốn chúng xuất gia: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni.
Sa di, Sa di ni.
2.- Chánh pháp nhăn tạng là phép truyền tâm ấn
đặc biệt của Thiền tông.
- Một áo trong bộ Tam y của hàng Tỳ kheo: a/-
Tăng già lê: áo ngoài. b/- Uất đa la:
áo giữa.
c/- An đà hội: áo trong.
- “Ngày sau
người được áo này, là tôi ra đời, trụ tŕ nơi đây, và
trùng tu ngôi chùa”.
Đến đời Tống
Gia Hựu năm thứ 8, có Tăng Duy Tiên tu sửa điện, đào đất
được áo trông như mới. Tượng c̣n lưu tại Cao Tuyền Tự, cầu
điều ǵ cũng linh ứng.
-- *** --
Có vị Tăng
đọc kệ Ngọa Luân Thiền sư:
“Ngọa
Luân có tài giỏi
Hay đoạn trăm
tư tưởng
Đối cảnh tâm
không khởi
Bồ đề ngày
tăng trưởng”.
Đại Sư nghe,
liền dạy:
- “Kệ này
chưa rơ chơn tâm, nếu y theo tu hành thêm trói buộc, nhân
đó cho một kệ:
“Huệ Năng
không tài giỏi
Chẳng đoạn
trăm tư tưởng
Đối cảnh tâm
luôn khởi
Bồ đề sao
tăng trưởng?”
-- ***
--
GIẢI THÍCH:
-- *** --
Chú giải về 62 tà kiến: theo "Phật học đại tự điển"
do hội tu đính Đại Tạng Kinh ấn hành tại Thiện Đạo Tự,
Trung Hoa Dân Quốc, năm thứ 73 Đài Bắc - Đài Loan:
62 kiến
(627- 1128) :
1./ Sắc là thường
2./ Sắc là vô thường
3./ Sắc là thường vô thường
4./ Sắc là phi thường phi vô thường
Các thứ Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng như thế:
Ngũ uẩn: Sắc uẩn, Thọ uẩn, Hành uẩn, Thức uẩn thành
20
Hiện tại hữu biên, vô biên, ngũ ấm có
------------------ 20
Sau khi chết, như đi, chẳng đi có
----------------- 20
Thành
60
Thần với 1 thân, thần với thân khác có
-------- 02
Cộng ---- 62
Đoạn thường, hữu vô là biên kiến
(thấy một bên)
Dùng đoạn thường 2 kiến làm căn bản, là
---- 62 kiến
62 kiến ngoại đạo:
- Sắc uẩn cho là ta có 4 câu:
- a-/ sắc là ta.
- b-/ ĺa sắc mà có ta.
- c-/ sắc là lớn, ta là nhỏ - ta trụ trong sắc.
- d-/ ta là lớn, sắc là nhỏ - sắc trụ trong ta.
- 4 uẩn khác: Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng như trên. Họp
lại thành 20. Trải qua 3 đời họp thành 60. Dùng Đoạn và
Thường, 2 kiến làm căn bản thành 62 kiến.
--***--
VIII.- ĐỐN TIỆM
PHƯƠNG PHÁP DẠY TẮT VÀ DẠY THEO THỨ LỚP
-- *** --
Bấy giờ Lục Tổ
ngụ tại chùa Bửu Lâm, Tào Khê, Thượng Tọa Thần Tú ở chùa
Ngọc Tuyền, Kinh Nam, hai phái truyền bá rất thạnh hành,
người đời ca tụng: Nam Năng - Bắc Tú, chia ra Đốn Giáo và
Tiệm giáo, khiến những người học đạo phân vân, chưa biết
phải theo tông chỉ nào. Trước t́nh trạng đó, Lục Tổ khuyên
đồ chúng:
- “Đạo Pháp vốn
từ một gốc, người có Bắc Nam, pháp duy có một nhưng chỗ
thấy và hiểu có chậm, mau. Tại sao gọi đốn tiệm? Pháp
không đốn tiệm, người có sáng có mê, sự hiểu biết mau chậm
khác nhau, nên gọi đốn tiệm”.
Tuy nhiên, môn
đồ của Thượng tọa Thần Tú thuờng hay chê Tổ Sư Nam Tông:
-“Chẳng biết một
chữ, có ǵ sở trường”.
Thượng tọa
Thần Tú can:
- “Đại sư Huệ
Năng được trí vô sư, đă thâm ngộ chơn lư thượng thừa, tôi
không sánh bằng. Hơn nữa, Đại Sư Huệ Năng c̣n được Thầy
tôi, Ngũ Tổ, đích thân truyền Y Pháp, đâu phải tự nhiên mà
được? Tôi tiếc v́ đang thọ ơn vua, không thể đi xa để được
gần gũi hầu học thêm nơi người. Các ông hăy đến Tào Khê,
trước tham lễ, sau t́m lănh hội những điều chưa hiểu biết”.
Ngày nọ,
Thượng tọa Thần Tú gọi riêng môn nhơn Chí Thành, người ở
Thái Ḥa, huyện Kiết Châu, dặn:
- “Ông thông
minh, đa trí, nên v́ tôi, đến Tào Khê nghe Lục Tổ giảng
pháp và tận tâm ghi nhớ, về thuật lại tôi nghe”.
Chí Thành
vâng mạng đến Tào Khê, dấu tông tích, lẫn vào đồ chúng
nghe giảng.
Bấy giờ,
trong buổi thuyết pháp, Tổ sư cảnh cáo:
- “Có người
trộm pháp ẩn trong hội này”. Chí Thành liền ra lễ bái,
tŕnh bày các việc. Đại Sư hỏi:
- “Ông từ
Ngọc Tuyền đến, phải chăng để thám thính?”
Chí Thành
bạch:
- “Không phải”.
Đại Sư hỏi:
- “Tại sao
không phải?” Chí Thành bạch:
- “Khi tôi
chưa nói ra là phải, giờ đă nói th́ không phải”. Đại Sư
hỏi tiếp:
- “Thầy ông
dạy đồ chúng những ǵ?” Chí Thành bạch:
- “Thường dạy
chúng tôi trụ tâm quán tịnh, ngồi tập trung tư tưởng,
không nằm”. Đại Sư:
- “Trụ tâm
quán tịnh là bịnh, không phải thiền, ngồi lâu câu thúc
thân thể, về lư, đâu có ích ǵ. Ông nghe kệ đây:
“Sống ngồi
không nằm
Chết nằm
chẳng ngồi
Đống xương
thịt thúi
Công phu ǵ?...
Ôi!”
Chí Thành
liền lạy, bạch:
- “Học nhơn
theo Đại sư Thần Tú học đạo 9 năm chưa sáng tỏ, nay nghe
Ḥa thượng một lời, bổn tâm liền ngộ. Sanh tử là việc lớn,
kính xin Ḥa thượng từ bi chỉ dạy”. Đại Sư:
- “Tôi nghe
thầy ông dạy môn nhơn Giới, Định, Huệ, chẳng rơ Đại sư
Thần Tú giảng nghĩa lư ra sao, thuật lại tôi nghe”.
Chí Thành
bạch:
- “Đại sư
Thần Tú giảng: “Các việc ác không làm gọi Giới, làm
các điều lành gọi Huệ, luôn Tịnh ư ḿnh gọi Định”.
Chẳng hay Ḥa thượng dùng pháp nào dạy người?” Đại Sư:
- “Nếu tôi
nói có pháp dạy cho người, là dối ông, tôi chỉ tùy phương
tiện mở trói buộc. Phương tiện ấy tức Chánh Định. Lời thầy
ông dạy về giới, định, huệ, tôi không thể luận bàn. Chỗ
thấy của tôi về giới, định, huệ lại khác”.
Chí Thành
bạch:
- “Giới, Định,
Huệ chỉ có một, sao lại khác?” Đại Sư:
- “Giới, định,
huệ, của thầy ông để tiếp độ người đại thừa, c̣n giới,
định, huệ của tôi dùng tiếp độ người tối thượng thừa. V́
liễu ngộ chẳng đồng, nên thấy có chậm, mau. Ông hăy nghe
tôi giải rồi đối chiếu với điều Thầy ông dạy, có giống
nhau không? Tôi thuyết pháp không rời chơn tánh. Rời bổn
thể dạy pháp là tướng thuyết, tánh c̣n mê. Nên hiểu tất cả
pháp đều từ tự tánh khởi dụng, đó mới chơn pháp Giới,
Định, Huệ.
Nghe kệ:
“Tâm
không quấy tự tánh giới
Tâm không mê
tự tánh huệ
Tâm không
loạn tự tánh định
Không tăng
không giảm tự Kim Cang
Thân vẫn tới
lui, ḷng thanh tịnh”.
Chí Thành
nghe xong hối hận, tạ lỗi và tŕnh một kệ:
\
“Năm
uẩn như ảo ảnh,
Không thể đạt
cứu cánh.
Nên về với
chơn như,
Chấp pháp
ḷng chưa tịnh”.
Đại Sư khen
phải, bảo Chí Thành:
- “Giới, Định,
Huệ, của thầy ông dùng dạy người tiểu căn, thiểu trí,
Giới, Định, Huệ, của tôi dạy người đại căn, đại trí.
Tánh nếu sáng tỏ không cần lập Bồ đề và Niết bàn, cũng
không cần tạo Giải thoát tri kiến. Không một vật ǵ t́m
được trong chơn tánh, như thế mới có thể thành lập muôn
pháp. Rơ được lư này, gọi Phật thân, gọi Bồ Đề Niết Bàn,
cũng gọi Giải thoát tri kiến. Người thấy tánh, lập muôn
pháp cũng đặng, không lập cũng được, tới lui tự do, không
ngăn không ngại, ứng dụng tùy cơ, ứng lời tùy đáp, ứng
việc tùy hành, hóa thân cùng khắp vẫn chẳng rời tánh ḿnh,
như vậy tức đặng Tự tại thần không du hí Chánh Định,
đó, gọi thấy tánh”. ¹
-----
1.- Tự tại thần thông là huệ tánh thiêng
liêng ứng dụng suốt thông trong mọi hoàn cảnh, ở mọi nơi.
Du hí Chánh Định là phép Chánh Định tự do
của chư vị Bồ Tát. Vào ra các nơi, các cảnh, dầu mau dầu
chậm cũng đều tự do tự tại.
Chí Thành:
- “Bạch Ḥa
Thượng, thế nào gọi nghĩa chẳng lập?” Đại Sư:
- “Tánh ta không
quấy, không si, không loạn, bất cứ lúc nào cũng dùng trí
Bát Nhă chiếu soi, thường rời cảnh tướng, tự do, tự tại,
dọc ngang đều được th́ có ǵ cần phải lập? Tự ngộ tánh,
đốn ngộ đốn tu, không lần hồi thứ lớp, tất cả pháp không
cần lập. Các pháp vắng lặng đâu cần thứ lớp”.
Chí Thành nghe
xong, lễ bái tạ ơn, và nguyện hầu hạ Đại Sư, sớm tối không
xao lăng.
-- ***
--
Tăng Chí Triệt,
người Giang Tây, họ Trương tên Hành Xương, lúc trẻ là hiệp
sĩ. Từ khi Nam Bắc chia rẽ, phân ra việc hóa độ, hai tông
chủ tuy không bỉ ngă, nhưng học tṛ, bè bạn của hai phái
tranh chấp nhau rồi sanh ḷng ưa ghét. Bấy giờ, môn nhơn
Bắc tông lập Thượng tọa Thần Tú làm Tổ thứ 6, nhưng ngại
việc Lục Tổ được Ngũ Tổ truyền Y Bát, khắp thiên hạ đều
nghe biết, nên ngầm sai Hành Xương đến ám sát Lục Tổ. Đại
Sư tâm thông, dự biết việc này, nên để sẵn 10 lượng vàng
trong pḥng. Nhân đêm khuya, Hành Xương lẻn vào pḥng Tổ,
toan ám hại, Tổ đưa cổ ra, Hành Xương múa đao 3 phen mà
không chém được. Đại Sư thương hại:
- “Gươm chánh
không dùng việc tà, kiếm tà không hại được người chánh,
tôi chỉ nợ ông vàng chớ không nợ mạng”.
Hành Xương kinh
hải, ngă xỉu, hồi lâu mới tỉnh, hối hận lạy, thành khẩn
xin Đại Sư tha tội và tự nguyện xuất gia. Đại Sư đưa vàng
dặn:
- “Ông nên ra
đi, đồ chúng hay được họ sẽ hại ông. Ngày khác, cải dạng
rồi hăy đến, khi đó tôi sẽ thâu nhận”.
Hành Xương vâng
lệnh, nửa đêm trốn đi. Sau đầu tăng xuất gia, cụ giới tinh
tấn. Ngày nọ, nhớ lời Đại Sư dặn, Hành Xương từ xa đến lễ
hầu. Đại Sư ân cần, trách:
- “Tôi nhớ ông
từ lâu, sao đến muộn vậy?”
Hành Xương bạch:
- “Ngày trước
học nhơn nhờ ơn Ḥa thượng tha tội, tuy đă xuất gia, khổ
hạnh, nhưng vẫn nghĩ, dầu tu suốt kiếp, cũng khó mong báo
đền được ơn đức này. Nay đến đây, nguyện cầu Ḥa thượng
truyền pháp, để học nhơn ráng sức hoằng dương độ chúng
sanh. Học nhơn thường xem kinh Niết Bàn, chưa hiểu rơ
nghĩa thường và vô thường, kính xin Ḥa
thượng từ bi lược giải”. Đại Sư:
- “Vô thường tức
Phật tánh, hữu thường là tâm phân biệt tất cả cảnh thiện
ác”. Hành Xương kính cẩn bạch:
- “Học nhơn xin
được hỏi, lời giải đó của Ḥa thượng có trái với kinh văn
không”. Đại Sư khẳng định:
- “Tôi truyền
tâm ấn của Phật, nào dám giải sai kinh Phật”.
Hành Xương bạch:
- “Kinh chép: “Phật
tánh là thường” Ḥa thượng cho là vô thường. Các điều
thiện ác cho đến tâm bồ đề đều vô thường, Ḥa thượng giải
trở lại là thường, như vậy trái ngược, khiến học nhơn này
càng thêm nghi hoặc”. Đại Sư:
- “Ngày xưa nghe
ni sư Vô Tận Tạng đọc kinh Niết Bàn một lần, tôi đă v́ ni
sư giảng giải, không một chữ một nghĩa sai với kinh văn.
Hôm nay, tôi giảng cho ông cũng không hai lư”. Hành Xương:
- “Học nhơn sức
hiểu mê cạn, nguyện Ḥa thượng giải thích rơ chi tiết”.
Đại Sư giảng:
- “Ông nên biết,
Phật tánh nếu thường, th́ các pháp thiện ác, cho đến cùng
kiếp cũng không một người phát tâm bồ đề? V́ thế, tôi giải
vô thuờng, Phật thuyết đạo chơn thường. Lại nữa, tất cả
các pháp nếu vô thường, tức mọi vật đều có tánh riêng,
phải chịu sanh tử, tánh chơn thường không thay đổi, nên
tôi giải thường, chính Phật giảng nghĩa chơn vô thường.
Phật v́ thấy phàm phu ngoại đạo hiểu sai lầm đạo thường
cho là tà thường. Người tu hàng nhị thừa, thường cho là vô
thường, cộng thành bát đảo ¹
(8 điều trái ngược).
Nên kinh Niết Bàn liễu nghĩa dạy: “Phá biên kiến
”của người khác bằng cách giải tỏa sự thấy một chiều của
họ, để chỉ rơ chỗ chơn thường, chơn lạc, chơn ngă, chơn
tịnh. Nay ông theo lời văn mà hiểu trái nghĩa của Phật,
cho rằng tất cả những ǵ có thay đổi là vô thường, những
ǵ không thay đổi là thường. Đó là ông hiểu lầm lời huyền
vi, viên diệu tối hậu của Phật. Như vậy, dầu ông xem kinh
đến ngàn lần cũng không có ích ǵ”.
Hành Xương liền
đại ngộ, đọc kệ:
“Nhân chấp tâm
vô thường
Phật thuyết hữu
thường tánh
Chẳng rơ là
phương tiện
Như đáy ao lượm
sỏi sành.
Tôi nay chẳng
nhọc công
Hiện tiền thấy
Phật tánh
Chẳng nhờ Sư chỉ
giáo
Tôi không thể
đắc đạo”.
Đại
sư:
- “Nay ông thấu
triệt, đáng gọi Chí Triệt”.
Chí Triệt lễ tạ,
lui ra.
-- *** --
Cậu bé tên Thần
Hội, họ Cao, quê ở Hoài Dương, 13 tuổi, từ chùa Ngọc Tuyền
(nơi sư Thần Tú dạy đạo)
đến lễ Đại sư.
- “Tri thức khó
nhọc, từ xa đến, đă thấy được bổn lai chưa? Nếu có gốc
phải biết ngôi chủ, nói thử tôi nghe?” Thần Hội:
- “Không mắc
dính làm gốc, thấy tức là chủ”. Đại Sư trách:
- “Ấy! Sa di
tranh căi thế nào, hăy nói thứ tự ”.
Thần Hội bạch:
------
Bát đảo:
A.- 4 trái ngược của phàm phu : 1.- Thường :
các pháp đều vô thường, họ cho thường. 2.-
Lạc : thế gian chịu các khổ, họ cho vui sướng,
tức Lạc. 3.- Ngă : thế gian không có cái ta,
họ chấp ngă, có ta. 4.- Tịnh : các pháp đều
bất tịnh, họ cho là tịnh.
B.- 4 trái ngược của nhị thừa: 1.-Vô thường,
với Niết Bàn là thường, họ cho vô thường. 2.-Vô
lạc: với Niết Bàn là lạc, họ cho
vô lạc. 3.-Vô Ngă: với Niết Bàn là ngă, họ cho
vô ngă. 4.- Vô tịnh: với Niết Bàn là thanh
tịnh, họ vô tịnh.
- “Ḥa thượng
ngồi thiền, thấy hay chẳng thấy?”
Đại Sư trắc
nghiệm, dùng gậy gơ nhẹ ba cái, hỏi:
- “Tôi đánh cậu
em đau hay không đau?” Thần Hội bạch:
- “Đau mà cũng
chẳng đau”. Đại Sư:
- “Tôi thấy mà
cũng chẳng thấy”. Thần Hội bạch:
- “Thế nào là
thấy cũng chẳng thấy?” Đại Sư giải:
- “Chỗ thấy của
tôi là thường thấy các lầm lỗi của bổn tâm, chẳng thấy thị
phi tốt xấu của người khác. Đó là thấy cũng chẳng thấy.
Cậu em đáp đau cũng chẳng đau nghĩa là sao? Nếu không đau
th́ đồng với cây đá vô tri, nếu đau tức đồng với phàm phu,
dễ sanh tức giận; cứ như chỗ hỏi trước: “Thấy hay chẳng
thấy? “ vậy c̣n chấp hai bên, câu “Đau cũng không
đau “ tức c̣n sanh diệt. Tánh của ḿnh c̣n không thấy,
sao lại dám đùa giỡn với người khác?”
Thần Hội lạy tạ,
hối lỗi. Đại Sư thương t́nh, dạy tiếp:
- “Nếu tâm c̣n
mê chưa thấy bổn tánh, nên hỏi thiện tri thức chỉ đường,
nếu đă ngộ thấy tánh nên y pháp tu hành; c̣n mê chưa thấy
bổn tâm lại đến hỏi tôi thấy với không thấy. Tôi thấy tôi
tự biết, há thay được cái mê của cậu sao? Nếu cậu tự thấy
cũng không thay cái mê của tôi được, sao chẳng tự biết tự
thấy, lại hỏi tôi thấy với không thấy?”
Thần Hội lễ hơn
trăm lạy, cầu tạ lỗi lầm và ân cần phục vụ, hầu hạ bên Đại
Sư chẳng rời.
-- ***
--
Ngày nọ, Đại Sư
hỏi đồ chúng:
- “Tôi có một
vật, không đầu, không đuôi, không tên, không chữ, không
lưng, không mặt, các ông có biết chăng?”
Thần Hội vội
bước ra bạch:
- “Đó là cội
nguồn của chư Phật, Phật tánh của Thần Hội”.
Đại Sư quở:
- “Tôi đă gọi
vật không tên, không chữ, sao bảo đó là nguồn gốc Phật
tánh, như vậy, dầu có đi đến chánh đạo, th́ cũng như người
ngồi lấy mái tranh che đầu; học thêm bao lâu cũng chỉ là
một tông đồ giỏi luận về Phật pháp qua kinh sách mà thôi”.
Sau khi Tổ Sư diệt độ, Thần Hội vào kinh, mở rộng môn Tào
Khê đốn giáo, sáng tác sách Hiển Tông Kư, truyền bá rất
thạnh hành thời bấy giờ. Đó là Thiền sư Hà Trạch.
Ngày nọ, Đại Sư
thấy môn đồ các tông, ngồi quanh dưới pháp ṭa, khi thảo
luận nhiều người khởi tâm ác, cố ư vấn nạn, bắt bẻ, xem
nhau như thù địch. Động ḷng thương xót, Đại Sư thân mật
khuyên giải:
- “Người học đạo
nên dứt bỏ tất cả niệm tưởng lành, niệm tưởng ác mới thích
hợp, nhưng không có tên nào kêu xưng cho đúng, vậy tạm gọi
tánh không hai, tức tánh không thương không ghét, là thật
tánh; từ thật tánh lập ra tất cả giáo môn. Vậy, sau khi
nghe thuyết pháp đốn giáo này liền thấy bổn tánh để hành
đạo”.
Đồ chúng nghe
dạy, đồng lễ tạ, xin thờ Đại Sư là thầy.
-- ***
--
IX.- TUYÊN CHIẾU
CHIẾU TRIỆU
-- *** --
Niên hiệu Thần
Long, năm thứ nhứt, ngày thượng nguơn, Hoàng thái hậu Vơ
Tắc Thiên và Hoàng đế Trung Tông ban chiếu:
- “Trẫm thỉnh
Huệ An, Thần Tú, hai đại sư vào cung cúng dường, và nhân
lúc nhàn rỗi cùng nghiên cứu nhứt thừa”.
Hai vị Đại sư
thối thoát, tâu:
- “Phương Nam
hiện có Thiền sư Huệ Năng được Tổ Hoằng Nhẫn mật truyền Y
Pháp, là người được truyền tâm ấn của Phật, nên triệu
thỉnh để hỏi ”.
- “Nay Trẫm
sai nội thị Tiết Giản, mang chiếu triệu thỉnh, mong Đại Sư
từ bi niệm t́nh, sớm về kinh”.
Đại Sư thượng
biểu, viện cớ bịnh, từ chối, và phát nguyện trọn đời ở nơi
lâm dă. Tiết Giản bạch:
- “Các vị thiền
đức nơi kinh thành dạy: “Muốn được ngộ đạo phải ngồi
thiền và tập định, nếu chẳng nhờ thiền định mà được giải
thoát, là điều chưa từng có “. Chẳng rơ Đại Sư giảng
pháp thế nào?” Đại Sư giải thích:
- “Đạo do tâm
ngộ, đâu phải tại ngồi. Kinh chép: “Nếu bảo Như Lai dạy
ngồi hoặc nằm, là hành tà đạo”, v́ sao? Từ không chỗ
đến, cũng không chỗ đi, không sanh không diệt, gọi Như Lai
thanh tịnh thiền. Các pháp đều vắng lặng là Như Lai thanh
tịnh tọa, rốt ráo vẫn không chứng, hà huống do ngồi”. Tiết
Giản:
- “Đệ tử hồi
kinh, chúa thượng sẽ hỏi, nguyện Đại Sư từ bi chỉ chỗ tâm
yếu, để đệ tử tấu tŕnh hai cung, cùng các vị học đạo ở
kinh thành. Được vậy, ví như một đèn mồi trăm ngàn đèn,
khắp nơi u tối đều được sáng, sáng sáng vô cùng tận”.
Đại Sư:
- “Đạo không
sáng tối, sáng tối là nghĩa thay thế, sáng sáng vô tận,
nhưng cũng có khi hết, sáng và tối đối đăi nhau mới thành
tên. Kinh Tịnh Danh chép: “Pháp không so sánh, không
đối đăi”. Tiết Giản lại bạch:
- “Sáng ví như
trí huệ, tối ví như phiền năo, người tu nếu chẳng dùng trí
huệ chiếu phá phiền năo th́ nương vào đâu mà thoát khỏi
được ṿng sinh tử từ vô thỉ?” Đại Sư:
- “Phiền năo tức
bồ đề, không phải hai, cũng không phải khác nhau. Nếu dùng
trí huệ chiếu phá phiền năo, đó là sự hiểu biết của hàng
nhị thừa; các xe dê, nai, trâu, đều do căn cơ của bực
Thinh văn và Duyên giác; bực thượng trí đại căn không hiểu
như vậy”. Tiết Giản lại bạch:
- “Chỗ thấy biết
của bực đại thừa thế nào?” Đại Sư giảng:
- “Sáng với
không sáng, người phàm thấy hai, với người trí liễu đạt,
tánh ấy không hai, tánh không hai tức thật tánh. Thật tánh
ở người phàm không giảm, Thánh Hiền không tăng, trụ nơi
phiền năo không loạn, tại thiền định không lặng yên, chẳng
dứt chẳng thường, không đến chẳng đi, không tại trung
gian, cũng không trong ngoài, không sanh, chẳng diệt, tánh
và tướng tự như như, thường trụ không dời đổi, nên gọi
thật tánh là đạo“. Tiết Giản bạch tiếp:
- “Nghe Đại Sư
giảng lư bất sanh bất diệt, đệ tử trộm nghĩ không khác
giới ngoại đạo?” Đại Sư:
- “Người ngoại
đạo gọi bất sanh bất diệt là đem diệt ngưng sanh, dùng
sanh hiển rơ diệt, diệt như chẳng diệt, sanh gọi không
sanh. C̣n tôi giảng bất sanh bất diệt là tánh bổn lai, vốn
tự không sanh, nên chẳng diệt, v́ thế không đồng với người
ngoại đạo. Nếu ngài muốn rơ chỗ yếu chỉ của tâm, th́ tất
cả thiện ác đều không nghĩ đến, tự nhiên tâm thể được
thanh tịnh, vắng lặng, diệu dụng vô cùng".
Tiết Giản nhờ
chỉ giáo, tâm tánh liền sáng tỏ, cung kính hành lễ từ giă
về triều, tấu tŕnh các lời Đại Sư dạy.
Năm ấy, ngày
mùng 3 tháng 9, chiếu dụ đến cho Đại Sư như sau:
- “Đại Sư cáo
bịnh chối từ không về kinh, vậy hăy v́ Trẫm tu hành để tạo
phước điền cho nước. Đại Sư cũng như Sư Tịnh Danh cáo
bịnh, cũng ở lại thành Tỳ Da Li để xiển dương môn Đại
Thừa, truyền pháp tâm đàm “bất nhị”của chư Phật“.
- “Tiết Giản
được Đại Sư chỉ dạy về tri kiến của Như Lai. Trẫm nhờ tích
thiện, phước dư, vốn trồng căn lành nên được gặp Đại Sư ra
đời, mà hiểu được pháp thượng thừa. Trẫm cảm đội ơn Đại
Sư. Cùng với việc dâng Ma nạp ca sa và Bát thủy tinh, Trẫm
c̣n lịnh cho Thiều Châu thứ sử tu sửa tự viện, và sắc tứ
hiệu chùa là Quốc Ân Tự“.
-- *** --
X.- PHÓ CHÚC
NHỮNG LỜI DẶN D̉ CỦA LỤC TỔ
-- *** --
Ngày nọ, Đại Sư
gọi các môn nhơn: Pháp Hải, Chí Thành, Pháp Đạt, Thần Hội,
Trí Thường, Trí Thông, Chí Triệt, Chí Đạo, Pháp Trân, Pháp
Như ... đến dạy:
- “Các ông khác
người thường, sau khi tôi diệt độ, mỗi người nên làm Thầy
một phương. Hôm nay tôi dạy các ông cách thuyết pháp, để
khỏi sai lạc bổn tông, tức Thiền tông”:
- “Trước hết,
nên xử dụng 3 khoa, rồi dùng 36 phép đối. Khi đưa ra lúc
ẩn kín phải rời cả hai bên. Lúc thuyết các pháp, nên ǵn
chơn tánh. Nếu có người hỏi các ông về Phật pháp, th́ mỗi
lời nói đều phải đi đôi, giữ phép đối, lui tới nương nhau,
sau cùng cả 2 phép đều bỏ dứt, cũng không chấp chỗ bỏ. Ba
khoa giáo lư là:
ẤM - GIỚI - NHẬP:
ẤM,
có 5 ấm: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
GIỚI,
có 18 giới, gồm:
- 6 Trần:
Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp.
(màu
sắc, tiếng, mùi, nếm, tiếp xúc, va chạm)
- 6 Cửa
tức 6 căn: Nhăn, Nhĩ, Tĩ, Thiệt, Thân, Ư.
(mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân thể, ư tưởng)
- 6
Thức: Nhăn, Nhĩ, Tĩ, Thiệt, Thân và Ư thức.
NHẬP,
là 12 chỗ vào, ngoài có 6 Trần, trong có
6 Cửa.
Bổn tâm bao hàm
vạn pháp, nên gọi hàm tàng thức
(kho chứa tất cả điều lành dữ).
Nếu tâm khởi suy nghĩ, lo lường, tức tâm chuyển thành
thức. Thức này sanh 6 thức ra 6 cửa, rồi thấy 6 trần. Đó
là 18 giới, đều từ bổn tâm khởi ra xử dụng. Nếu tâm tà
khởi 18 điều tà, nếu tâm chánh khởi 18 điều chánh. Nếu bổn
tánh ứng dụng theo điều ác, là ứng dụng của chúng sanh.
Bổn tánh ứng dụng điều lành, tức ứng dụng của Phật”.
- “Vậy dụng
do đâu mà có? Từ bổn tánh sanh. Về phép đối:
- “Ngoại
cảnh vô t́nh, có 5 đối: trời đối đất, mặt trời đối mặt
trăng, sáng đối tối, âm đối dương, nước đối lửa, là 5 đối”.
- “Pháp
tướng ngôn ngữ, có 12 đối: tiếng nói đối với pháp, có
đối không, có sắc đối không sắc, có tướng đối không tướng,
hữu lậu
(tức phiền năo),
đối vô lậu, sắc đối không, động đối tịnh, thanh đối trược,
phàm đối thánh, tăng đối tục, già đối trẻ, lớn đối nhỏ,
cộng 12 đối”.
- “Tự tánh
khởi dụng, có 19 đối: dài đối ngắn, tà đối chánh, si
đối huệ, ngu đối trí, loạn đối định, hiền từ đối ác độc,
giới đối quấy, ngay đối cong, thật đối hư, hiểm đối b́nh,
phiền năo đối bồ đề, thường đối vô thường, từ bi đối độc
hại, vui đối giận, bố thí đối keo kiệt, tấn đối thối, sanh
đối diệt, pháp thân đối sắc thân, hóa thân đối báo thân,
cộng 19 đối”.
Đại Sư giảng
tiếp:
- “Đó là 36
pháp đối, nếu thấu hiểu và ứng dụng tức là đạo. Quán thông
tất cả kinh pháp, xuất nhập đều rời hai bên. Tự tánh động
dụng khi cùng với người đối đáp, bên ngoài: đối với tướng
phải rời tướng, bên trong: đối không phải dứt không. Tâm
c̣n chấp tướng liền tăng thêm tà kiến. Tâm nếu chấp không
tăng trưởng thêm vô minh. Người chấp không thường có ư chê
kinh, cho rằng không dùng văn tự. Đă không dùng văn tự th́
đừng nói ra lời, v́ lời nói là tướng của văn tự. Họ lại
cho rằng:
- “Cứ nói
thẳng không lập văn tự, vậy hai chữ không lập cũng là văn
tự”. Nghe người nói vội chê lời, là chấp văn tự. Các ông
nên biết, tự ḿnh mê, có thể dung chế được, c̣n tranh luận,
chê bai kinh Phật bị tội chướng vô số. Nếu chấp tướng bên
ngoài lại dối tạo ra pháp để cầu chơn, hoặc mở rộng đạo
tràng, giảng những điều lầm lỗi về Có về Không, người như
thế, dù tu vô số kiếp cũng không thấy tánh được”.
- “Nghe giảng
dạy, y chánh pháp tu hành, nếu trăm việc không nghĩ tới
làm cho chơn tánh bị ngăn trở. Nghe giảng mà chẳng tu hành
ắt khiến người sanh tà niệm. Nên y pháp, khi giảng đừng
chấp tướng. Các ông nếu hiểu rơ, y theo đó giảng, theo đó
dụng, theo đó tu th́ không lạc mất bổn tông”.
- “Nếu có
người hỏi nghĩa các ông, hỏi có, đem không đối, hỏi không
dùng có đối, hỏi phàm lấy thánh đối, hỏi thánh đem phàm
đối, hai đường đối nhau sanh ra nghĩa trung đạo. Như một
hỏi một đối, hỏi các thứ khác y theo đó đáp, không mất lư.
Như có người hỏi sao gọi tối? Th́ đáp: “Sáng là nhân, tối
là duyên, hết sáng liền tối”.
Đại Sư dạy
tiếp:
- “Dùng sáng
chỉ rơ tối, lấy tối hiển sáng, tới lui đối nhau thành
nghĩa trung đạo, hỏi các thứ khác thảy đều đáp như vậy.
Các ông sau này truyền pháp, phải y theo đó chỉ cho nhau,
đừng để lạc mất tông chỉ”.
--***--
Tháng 7 năm
Nhâm Tư, niên hiệu Thái Cực
(tháng 5 lại cải hiệu Diên Ḥa, tháng 8 Huyền Tông tức vị,
cải hiệu Tiên Thiên, năm sau lại cải hiệu Khai Nguyên)
Đại Sư sai môn nhơn đến Tân Châu, đốc thúc nhơn công xây
một tháp tại chùa Quốc Ân. Cuối hè năm sau tháp hoàn thành.
Ngày 1 tháng 7, Đại Sư hợp đồ chúng, dạy:
- “Đến tháng
8 tôi sẽ rời thế gian, các ông có điều ǵ chưa rơ nên hỏi,
tôi giải chỗ nghi ngờ cho dứt mê, kẻo sau này không c̣n ai
chỉ dạy các ông nữa”.
Pháp Hải cùng
các người khác đều rơi lệ, chỉ có Thần Hội, thần t́nh
chẳng động, không buồn, không khóc. Đại Sư khen:
- “Tiểu sư
Thần Hội đă đạt đến chỗ tâm không c̣n thấy sự khác biệt
giữa lành và chẳng lành, chê khen chẳng động, buồn vui
không sanh. Các người khác chưa bằng được”.
Đại Sư than:
- “Tôi không
hiểu bao nhiêu năm vào núi, các ông tu hành cách nào? Hôm
nay các ông tủi khóc, v́ lo cho ai? Nếu lo tôi không biết
nơi đi, tôi tự biết chỗ đi. Nếu tôi không biết nơi đến sao
lại dự báo cho các ông? Các ông tủi khóc v́ chẳng biết nơi
tôi đến. Nếu biết được chỗ tôi đến, tức các ông không c̣n
buồn khóc. Pháp tánh vốn không sanh diệt tới lui, các ông
hết thảy ngồi xuống, cùng tôi tụng một bài kệ, gọi Chơn
giả động tịnh kệ. Tụng kệ này, nếu tâm ư đồng với tôi, các
ông theo đó tu hành, không mất tông chỉ”. Kệ:
“Tất cả
không chơn thật,
Chớ nghĩ thấy
được chơn.
Nếu lúc thấy
chỗ chơn,
Thấy đó rốt
không chơn.
Lúc cần thấy
chơn thời,
Hết giả ngộ
tâm chơn.
Bổn tâm vốn
không giả,
Không chơn
nơi nào chơn.
Hữu t́nh tức
có động,
Vô t́nh vốn
chẳng động.
Lầm tu hạnh
bất động,
Đồng vô t́nh
không động.
Muốn t́m chơn
bất động,
Nơi động có
bất động.
Bất động là
chẳng động,
Vô t́nh không
Phật chủng
(hạt giống Phật).
Nên khéo phân
biệt tướng,
Nghĩa đệ nhứt
bất động.
Ngộ được pháp tu
này,
Tức là dụng chơn
như.
Báo các người
học đạo,
Nỗ lực nên ngộ
lư.
Tu pháp môn đại
thừa,
Chớ chấp sanh tử
trí.
Lời bàn luận
thích hợp,
Cùng trao đổi
Phật nghĩa.
Nhược bằng không
hoà ư,
Chấp tay xin
hoan hỉ.
Tông này vốn
không tranh,
Tranh luận mất
đạo lư.
Tranh cải về
pháp môn,
Tự nhập sanh tử
trí”.
Phỏng dịch:
"Thế
gian vạn vật đều không thật,
Chớ vội vàng
cho thấy là chơn.
Mới nh́n qua
rơ ràng chơn,
Rốt cuộc lại
hoàn toàn không phải thật.
Tự tâm vốn
sẵn chân thật có,
Bỏ giả dứt tà
ngộ được chơn.
Huyền giả c̣n
tâm chưa chơn,
Tâm ḿnh sẵn
tịnh t́m chơn làm ǵ ?
Tâm có, t́nh
tránh sao khỏi động,
Tâm bất động
là giống vô t́nh.
Lầm theo
chẳng động tu hành,
Cùng loài bất
động trở thành vô tri.
Nếu muốn tu
tŕ tâm bất động,
Nơi các cảnh
động, tâm không lay.
Tâm bất động,
chẳng đổi thay,
Vô t́nh mất
giống Như Lai Niết Bàn.
Rơ thông suốt
nguyên nhân các tướng,
Đó thật là
tối thượng hạnh tu,
Chẳng nhiễm
động tĩnh thật hư.
Tức là ứng
dụng chơn như Bồ đề,
Đường tu học
ai người thượng trí.
Hăy gắng t́m
chân lư mà noi,
Môn đại thừa
gắng xét soi.
Học sanh tử
trí chấp liền khổ đau,
Nếu thích hợp
cùng nhau góp ư.
Luận bàn t́m
chân lư Phật tông,
Như chẳng đẹp
ư vui ḷng.
Thạnh t́nh
hoan hỉ chớ không ép nài,
Tu học sao
suốt ngày tranh cải ?
Gây tổn
thương ḥa ái là sai,
Biệt phân
phải, trái hôm nay,
Lạc vào sanh
tử luân hồi mai sau”.
Đồ chúng nghe kệ
xong, đồng đảnh lễ và vâng lời Đại Sư cùng nhiếp tâm theo
pháp tu, không c̣n tranh luận nữa.
Biết Đại sư c̣n
ở thế không lâu, Thượng ṭa Pháp Hải lạy bạch:
- “Ḥa thượng
sau khi nhập diệt, Y Pháp truyền cho người nào?” Đại Sư
dặn:
- “Những lời tôi
giảng từ chùa Đại Phạm cho đến hôm nay, các ông gom hết,
chép lại, tựa đề Kinh Pháp Bảo Đàn, rán cẩn thận
giữ ǵn và cố gắng cùng nhau truyền bá để cứu độ quần
sanh. Y theo lời kinh này tu, đó là chánh pháp. Với các
ông, tôi chỉ truyền pháp chớ không truyền Y, v́ các ông
tín căn đều thuần thục, quyết định chẳng nghi, đủ khả năng
đảm nhận đại sự. Theo ư kệ của Sơ Tổ Đạt Ma, Áo không
thích hợp truyền nữa”. Nghe
kệ:
“Tôi
vốn đến xứ này
Truyền pháp cứu mê t́nh
Một hoa nở năm cánh
Kết quả tự viên thành”.
Đại Sư giảng
thêm:
- “Thiện tri
thức! Các ông nên tịnh tâm nghe tôi giảng: Muốn tất cả
giống trí Phật được thành tựu, phải đạt được Nhứt tướng
Chánh Định và Nhứt hạnh Chánh Định.
Trước các cảnh giữ tâm không nhiễm, không sanh ḷng ưa,
ghét, cũng không giữ, bỏ, không nghĩ các việc lợi ích,
thành hoại, luôn an nhàn, điềm tịnh, hư dung, đạm bạc, đó
gọi Nhứt tướng Chánh Định. Lúc đi, đứng hay nằm, ngồi, đều
giữ ḷng luôn ngay thẳng, không động đạo tâm, chơn thành
tịnh độ, đó gọi Nhứt hạnh Chánh Định. Người nào hội đủ hai
phép chánh định, như đất có giống tốt, hàm chứa sự tăng
trưởng cho hột giống lớn nhanh đến kỳ trái chín. Nhứt
tướng, Nhứt hạnh cũng như vậy. Tôi hôm nay thuyết pháp như
mưa thấm ướt đất, Phật tánh của các ông như hột giống, gặp
đất ướt, mầm mộng phát sinh. Ai tu đúng theo tông chỉ của
tôi, quyết sẽ được chứng quả bồ đề, tu y theo hạnh của tôi,
nhứt định chứng được diệu quả”.
Nghe kệ:
“Tâm chứa các hạt giống
Mưa thấm mầm nảy sanh
Đốn ngộ hoa tâm nở
Bồ đề quả viên thành”.
Đọc kệ xong,
Đại Sư lại dặn thêm:
- “Pháp vốn
không hai, bổn tâm cũng vậy. Đạo vốn thanh tịnh nên không
có h́nh tướng. Các ông cẩn thận chớ quán tịnh và chấp tâm
không. V́ tâm vốn sẵn tịnh, không giữ, chẳng bỏ, nên nỗ
lực tùy duyên.
Thôi, các ông
hăy lui ra”.
Đồ chúng lễ tạ
lui ra.
Ngày mồng 8
tháng 7, Đại sư gọi môn nhơn, bảo:
- “Tôi muốn về
Tân Châu, các ông mau sắm sửa thuyền chèo”. Đại chúng
buồn thảm, tha thiết cầu xin Sư ở lại.
Đại Sư an ủi:
- “Chư Phật ra
đời rồi cũng vào Niết Bàn, có đến tất có đi, đó lẽ thường,
h́nh hài này của tôi đă có chỗ về”.
Đồ chúng bạch:
- “Đại Sư đi
phen này nên sớm trở lại”. Đại Sư an ủi:
- “Lá rụng về
cội, không hẹn ngày trở lại”.
Đồ chúng lại
bạch:
- “Chánh pháp
nhăn tạng sẽ truyền phó cho người nào?”
Đại sư:
- “Người có tâm
đạo th́ đặng, vô tâm th́ thông suốt!”
Đồ chúng lại
bạch:
- “Sau này có
nạn chi chăng?” Đại Sư dặn:
- “Sau khi tôi
tịch diệt, năm sáu năm sau sẽ có một người đến lấy đầu
tôi.
Các ông nên ghi
nhớ mấy lời này:
“Trên đầu dưỡng
thân
Trong miệng nuôi
ăn
Gặp nạn của Măn
Dương liễu làm
quan”.
Đại Sư dặn thêm:
- “Tôi đi rồi,
70 năm sau, có hai vị Bồ tát từ phương Đông đến, một xuất
gia, một tại gia, đồng chấn hưng, quảng bá tông phái này
và kiến thiết Phật tự”.
Đồ chúng bạch:
- “Chẳng rơ từ
Phật Tổ ứng hiện đến nay, truyền xuống mấy đời, kính mong
Đại Sư khai thị?”
Đại Sư tuần tự
kể:
- “Cổ Phật ra
đời đă vô số lượng, không thể kể hết. Tôi chỉ kể 7 vị Phật
gần đây.
Thời quá khứ
Trang Nghiêm kiếp, có:
1.- Tỳ Bà Thi
Phật,
2.- Thi Khí
Phật,
3.- Tỳ Xá Phù
Phật.
Thời hiện tại
Hiền kiếp, có:
1.- Câu Lưu Tôn
Phật,
2.- Câu Na Hàm
Mâu Ni Phật,
3.- Ca Diếp
Phật,
4.- Thích Ca
Văn Phật.
Bảy vị Phật
trên đây, Từ Thích Ca Văn Phật, là vị Phật đầu tiên,
truyền xuống:
Thứ nhứt: Ma
Ha Ca Diếp tôn giả
Thứ hai: A
Nan Đà tôn giả
Thứ ba:
Thương Na Ḥa Tu tôn giả
Thứ tư: Ưu Ba
Cúc Đa tôn giả
Thứ năm: Đề
Đa Ca tôn giả
Thứ sáu: Di
Giá Ca tôn giả
Thứ bảy: Bà
Tu Mật Đa tôn giả
Thứ tám: Phật
Đà Nan Đề tôn giả
Thứ chín:
Phục Đà Mật Đa tôn giả
Thứ mười:
Hiếp tôn giả
Thứ 11: Phú
Na Dạ Xa tôn giả
Thứ 12: Mă
Minh Đại Sĩ
Thứ 13: Ca Tỳ Ma
La tôn giả
Thứ 14: Long
Thọ Đại Sĩ
Thứ 15: Ca Na
Đề Bà tôn giả
Thứ 16: La Hầu
La Đa tôn giả
Thứ 17: Tăng Ǵa
Nan Đề tôn giả
Thứ 18: Ǵa Da
Xá Đa tôn giả
Thứ 19: Cưu Ma
La Đa tôn giả
Thứ 20: Đồ Dạ Đa
tôn giả
Thứ 21: Bà Tu
Bàn Đầu tôn giả
Thứ 22: Ma Nă
Loa tôn giả
Thứ 23: Hạt Lặc
Na tôn giả
Thứ 24: Sư Tử
tôn giả
Thứ 25: Bà Xá Tư
Đa tôn giả
Thứ 26: Bất Như
Mật Đa tôn giả
Thứ 27: Bát Nhă
Đa La tôn giả
Thứ 28: Bồ Đề
Đạt Ma tôn giả,
Sơ tổ đông độ
Thứ 29: Huệ Khả
Đại sư
Thứ 30: Tăng Xán
Đại sư
Thứ 31: Đạo Tín
Đại sư
Thứ 32: Hoằng
Nhẫn Đại sư
Huệ Năng này là
Tổ thứ 33.
- “Từ trước, các
vị Tổ đều có kế thừa. Các ông về sau, thay thế nhau lưu
truyền chánh pháp, chớ làm trái nghịch, sai lầm”.
Ngày mùng 3
tháng 8 năm Qúy Sửu, niên hiệu Tiên Thiên thứ hai,
(713, đến tháng 12 năm ấy, đổi niên hiệu là Khai Nguyên
nguyên niên)
tại
chùa Quốc Ân, sau khi thọ trai, Đại Sư bảo đồ chúng:
- “Các ông hăy
ngồi theo thứ tự, để tôi từ biệt”.
Pháp Hải bạch:
- “Ḥa thượng
lưu lại giáo pháp nào khiến cho đời sau người mê được thấy
Phật tánh?”
- “Các ông nghe
kỹ, người mê đời sau nếu biết được tâm chúng sanh, tức
thấy Phật tánh. Không biết được tâm chúng sanh muôn kiếp
t́m Phật cũng khó gặp. Nay tôi dạy các ông biết tâm chúng
sanh của ḿnh và thấy Phật tại tâm. Muốn cầu thấy Phật
phải biết tâm chúng sanh. V́ chúng sanh không biết ḿnh có
tánh Phật, nên mê muội để tâm chúng sanh che mờ tâm Phật,
chớ chẳng phải tâm Phật làm mê muội chúng sanh. Nếu tánh
của chúng sanh giác ngộ, th́ chúng sanh là Phật. Tánh mê,
Phật là chúng sanh. Tánh b́nh đẳng, tâm chúng sanh là
Phật. Tánh tà hiểm, gian ác, Phật tánh bị tâm chúng sanh
che khuất. Nếu tâm quanh co hiểm khúc tức tánh Phật ở
trong tâm chúng sanh. Một niệm tưởng ngay thẳng, trong
sạch, tức chúng sanh thành Phật. Tâm ta tự có Phật, Phật
tại tâm mới là Phật thiệt. Không t́m Phật ở ngay trong
tâm, đi t́m cầu chơn Phật ở xứ nào? Tự tâm các ông là
Phật, chớ nên nghi ngờ. Các ông cần biết rơ, ngoài tâm ra,
không một thứ ǵ có thể tạo được vạn pháp. Chính tự tâm
sanh ra muôn giống pháp. Bởi vậy, kinh chép: “Tâm sanh
vạn vật sanh, tâm diệt các vật liền diệt“.
- “Nghe tôi đọc
một bài kệ để giă biệt các ông. Kệ này gọi Tự tánh chơn
Phật kệ. Người đời sau biết được ư bài kệ này, tự thấy
tánh liền thành Phật đạo”:
“Chơn như
tự tánh là chơn Phật,
Tà kiến ba độc
vốn Ma vương.
Lúc c̣n mê Ma
vương choán chỗ,
Đắc chánh kiến
sẵn Phật tại nhà.
Khởi tâm tà ba
độc sanh ra,
Tự mở cửa mời
thỉnh quỉ ma.
Chánh kiến sanh
tiêu tan ba độc,
Ma tu thành
Phật, thật không xa.
Pháp thân, Báo
thân và Hóa thân,
Ba thân nguyên
lai vốn một thân.
Nếu hướng vào
tâm luôn soi chiếu,
Tức đắc thành
Phật bồ đề nhân.
Từ nơi Hóa thân
sanh tánh tịnh,
Tịnh tánh thường
tại nơi hóa thân.
Nương chơn tánh
hóa thân hành đạo chánh,
Tâm viên minh
quí báu vô ngần.
Tánh dâm vốn từ
nhân tịnh tánh,
Dứt dâm tức đắc
tịnh tánh thân.
Ngộ tự tánh rời
xa ngũ dục,
Thấy tánh tức
khắc trở về chơn.
Duyên lành may
gặp môn đốn giáo,
Được giác ngộ
liền thấy Thế Tôn.
Nếu muốn tu sớm
thành Phật đạo,
Phải biết nơi
vào đúng Phật môn.
Quán tự tâm thấy
ra chơn tánh,
Rơ tánh chơn tức
nhân thành Phật.
Chưa thấy tánh,
bên ngoài t́m Phật,
Khởi tâm như
vậy, thật si nhơn.
Pháp môn đốn
giáo nay lưu lại,
Cứu độ người đời
chí tâm tu.
Chỉ lối hậu nhân
đường học đạo,
Không rơ đốn môn
lạc mịt mù”.
Phỏng dịch:
“Chơn
như bổn tánh là thật Phật,
Ḷng tà, ba
độc, vốn Ma vương.
Tâm mê, ma
quỉ dựa nương,
Thiệt hành
chánh kiến, Phật thường tại tâm.
Tà tâm khởi
liền sanh ba độc,
Do tự ḿnh mở
cửa rước ma.
Đắc chánh
kiến, chúng lánh xa,
Ma tu thành
Phật xem qua chuyện thường.
Pháp, Báo,
Hóa, ba thân là Phật,
Tuy rằng ba,
vốn thật một thân.
Chiếu soi
thấy được chơn tâm,
Tức liền ngộ
đắc chánh chân bồ đề.
Hóa thân nơi
tịnh tánh là nhân,
Tánh tịnh
thường tại Hóa thân.
Rơ được Hóa
thân hành Chánh đạo,
Tâm viên
minh, tức tại Niết Bàn.
Từ tịnh tánh,
khởi sang dâm tánh,
Xa rời dâm, ư
sạch ḷng thanh.
Dứt ngũ dục,
giữ tâm lành,
Giác trong
khoảnh khắc tánh hoàn chơn như.
Duyên hạnh
đắc thuyền từ đốn giáo,
Ngộ nhứt thời
thấy Đức Thế tôn.
Người tu muốn
nhập Phật môn,
Quán tâm
thanh tịnh pháp thân Phật Đà.
Tự chiếu soi
thấy ra chơn tánh,
Ngộ tánh chơn
tức Phật tại tâm.
Khổ công t́m
Phật xa xăm,
Tu hành như
vậy mê lầm, c̣n si.
Nay đốn giáo
hợp kỳ truyền bá,
Cứu độ người
quyết dạ tu hành.
Hỡi ai tâm
chánh ḷng thành,
Không thông
đốn pháp Đạo lành lạc xa
".
Đại Sư thuyết kệ
xong, ân cần dặn:
- “Các ông nhớ
kỹ, sau khi tôi diệt độ, không nên bắt chước thói thường
của người đời, khóc kể, đừng nhận phúng điếu cũng không
mặc tang phục. Nếu làm trái lời dặn này, không phải đệ tử
của tôi, v́ những h́nh thức đó chẳng phải chánh pháp. Chỉ
cần các ông biết tâm, thấy tánh, ḷng không động, không
tịnh, không sanh, không diệt, không đi, không đến, không
phải, không quấy, không ở nhứt định nơi nào, cũng không
dời đổi. Tôi lo các ông c̣n mê, không lănh hội được ư này,
nên ân cần dặn lại, khiến các ông thấy tánh. Sau khi tôi
diệt độ, hăy y phép tu như lúc tôi hiện diện. Nếu không
tuân những lời dặn này, dầu tôi c̣n tại thế cũng không ích
lợi”.
Nghe kệ:
“Ngơ
ngơ chẳng làm lành
Lâng lâng không
tạo ác
Vắng lặng hết
thấy nghe
Rỗng thông ḷng
không nhiễm”.
Đại Sư thuyết kệ
xong, ngồi im đến canh ba, bổng gọi môn nhơn:
- “Tôi đi đây!”
Rồi lặng lẽ viên
tịch. Lúc đó hương thơm khắp nhà, mống trắng đầy đất, cây
rừng nhượm màu tang, thú cầm kêu thảm thiết.
--***--
Tháng 11, Quảng
Châu, Thiều Châu, Tân Châu, quan viên, môn nhơn, tăng, tục
đổ về tranh nhau rước chơn thân Ngài, nhưng không ai quyết
định được sẽ đưa chơn thân về nơi nào, nên đốt hương khấn
nguyện, khói hương bay hướng Tào Khê.
Ngày 13 tháng
11, dời thần khám, bên trong xuất hiện một đạo bạch quang
xung thẳng lên không, 3 ngày mới tan. Viên huyện Thiều
Châu dâng sớ tấu tŕnh lên đức vua. Triều đ́nh sắc phong,
lập bia, ghi rơ đạo hạnh của Đại Sư :
Đại Sư thọ 76 tuổi, được truyền Y lúc 24 tuổi, thế phát
lúc 39 tuổi. Thuyết pháp lợi ích quần sanh 37 năm. Nối
pháp cho Ngài được 43 vị, c̣n số người tỏ ngộ chánh đạo,
siêu phàm thoát tục th́ vô số. Tín Y của Tổ Đạt Ma truyền
lại từ Tây Vực, là thứ vải bố Khuất Uyển. Áo Ma nạp và bửu
bát của vua Trung Tôn ban, cùng chơn tượng của Ngài do
Phương Biện đắp, với tất cả đạo cụ, đều vĩnh viễn lưu giữ
tại đạo tràng Bửu Lâm.
Lưu truyền Đàn
Kinh này, nhằm mục đích làm sáng tỏ tông chỉ Đức Lục Tổ,
cùng phát huy Tam Bảo, hầu làm lợi ích cho bá tánh thập
phương.
LỤC TỔ ĐẠI SƯ KINH PHÁP BẢO ĐÀN
NAM MÔ A
DI ĐÀ PHẬT
HẾT
-- *** --
LỤC TỔ ĐẠI SƯ DUYÊN KHỞI NGOẠI KƯ
Môn nhơn Pháp Hải cùng kết tập
Đại sư tên Huệ Năng. Thân phụ Ngài họ Lư, tên húy là Hành
Thao. Đời Đường Vũ Đức, tháng 9 năm thứ 3, bị giáng chức,
đày về Tân Châu. Thân mẫu Ngài là Lư Thị, nằm mộng thấy
trước sân hoa trắng đua nở, bạch hạc bay cả đôi, mùi thơm
lạ khắp nhà, khi thức dậy có cảm giác thọ thai, lại tinh
khiết thanh tịnh trai giới.
Bà mang thai 6 năm mới sanh Ngài, nhằm Đường Trinh Quán
năm thứ 12, giờ Tư ngày mùng 8 tháng 2 năm Mậu Tuất. Bấy
giờ hào quang khắp không trung, mùi hương thơm ngào ngạt.
Sáng ra có hai vị tăng đến xin yết kiến thân phụ Ngài, bảo
rằng:
- “Con ngài sanh đêm hôm nên đặt tên trên Huệ, dưới Năng”.
Thân phụ Ngài hỏi: “Sao tên Huệ Năng?” Tăng đáp:
- “Huệ là dùng pháp huệ tế độ chúng sanh, Năng là hay làm
Phật sự”. Nói xong ra đi, chẳng biết đi nơi nào.
Ngài không bú sửa mẹ, ban đêm thần nhơn dùng cam lộ nuôi
dưỡng. Đến 3 tuổi, thân phụ Ngài từ trần, táng bên cạnh
nhà. Mẫu thân Ngài thủ tiết nuôi dưỡng Ngài.Lớn lên Ngài
đốn củi nuôi mẹ. Năm 24 tuổi, Ngài nghe kinh tỉnh ngộ, đến
Huỳnh Mai tham lễ Ngũ Tổ, được mật truyền Y Pháp và khiến
nối ngôi Tổ đời thứ 6. Lúc ấy nhằm niên hiệu Long Sóc năm
Tân Dậu.
Ngài về phương Nam ẩn lánh. Đến niên hiệu Nghi Phụng, mùng
8 tháng giêng năm Bính Tư, Ngài gặp Ấn Tông pháp sư, gạn
hỏi luận bàn chỗ huyền áo. Ấn Tông khế ngộ ư chỉ của Đại
Sư. Rằm tháng giêng, Ấn Tông pháp sư hội tứ chúng, thế
phát cho Đại Sư. Ngày mùng 8 tháng 2, Ấn Tông tập hội các
danh đức, truyền thọ cụ túc giới cho Đại Sư. Tây Kinh Trí
Quang luật sư là thọ giới sư. Tô Châu Huệ Tịnh luật sư là
Yết Ma. Kinh Châu Thông Ứng luật sư là giáo thọ. Đa La
luật sư Trung Thiên Trúc là thuyết giới sư. Mật Đa Tam
Tạng ở Tây quốc là chứng giới. Giới đàn này do Tống triều,
Ngài Cầu Na Bạt Đà La Tam Tạng kiến lập, có ghi: “Sau này
sẽ có nhục thân bồ tát thọ giới nơi đây”. Đời Lương, niên
hiệu Thiên Giám, có Trí Dược Tam Tạng từ Tây Trúc quốc, đi
thuyền theo đường biển đến đây, đem cây bồ đề trồng bên
cạnh giới đàn này, cũng ghi cho nhớ: ”170 năm sau, có nhục
thân bồ tát ở dưới cội cây này, khai diễn Thượng Thừa, độ
vô số chúng sanh, là Pháp Chủ Chơn Truyền Tâm Ấn của Phật“.
Đại Sư từ khi xuống tóc thọ giới, cùng tứ chúng khai thị
tông chỉ đơn truyền, đúng theo lời ghi trước tại bia.
(Đời Lương niên hiệu Thiên Giám, năm Nhâm Ngũ đến đời
Đường niên hiệu Nghi Phụng, năm Bính Tư, được 175 năm).
Mùa
xuân năm sau, Đại Sư từ giả đồ chúng về Bửu Lâm, Ấn Tông
cùng đồ chúng tiển Đại Sư hơn ngàn người, thẳng về Tào Khê,
bấy giờ, Kinh Châu Thông Ứng luật sư cùng học giả lối trăm
người theo ở luôn với Đại Sư. Đại Sư đến Tào Khê, chùa Bửu
Lâm, thấy chỗ chật hẹp, chẳng đủ dung chứa đồ chúng. Muốn
mở rộng thêm ra, nên đến yết kiến chủ đất là Trần Á Tiên,
thưa:
- “Lăo
tăng muốn nhờ thí chủ cho chỗ đất trải tọa cụ đặng chăng?”
Á Tiên
bạch: “Tọa cụ của Ḥa thượng ước rộng bao nhiêu?” Tổ đưa
tọa cụ ra cho xem, Á Tiên vâng chịu. Tổ liền lấy tọa cụ
tung ra trùm bốn cảnh Tào Khê, có 4 thiên vương hiện thân
ngồi trấn 4 hướng. Đến nay tại cảnh chùa này có Thiên
Vương Lănh. Nhân đó mới có tên. Á Tiên bạch:
- “Biết
được Ḥa thượng pháp lực rộng lớn, nhưng v́ mộ phần cao tổ
đều tại nơi đây, ngày sau có tạo tháp, xin chừa lại các
ngôi mộ này. C̣n bao nhiêu tôi t́nh nguyện vĩnh viễn cúng
làm bửu phường. Tuy nhiên, đất này là nơi sanh long bạch
tượng đến kết mạch, chỉ nên bằng trên chớ nên b́nh nơi đất”.
Về sau
xây cất chùa theo y lời dặn này.
Đại Sư
dạo sơn thủy gặp các nơi thắng cảnh ngừng lại nghỉ ngơi,
đều trở thành nơi lan nhă, (nơi yên tịnh của nhà tu ở)
có 13 chỗ gọi hoa quả viện, đều nhập vào của chùa.
Bửu Lâm
đạo tràng nguyên trước kia Ngài Trí Dược Tam Tạng ở Tây
Vực, từ Nam Hải sang qua cửa Tào Khê, bụm nước lên uống,
nghe mùi vị thơm ngon lạ thường, gọi đồ chúng bảo:
- “Nước
này với nước bên Tây Thiên không khác, trên ḍng khe này
ắt có thắng địa, sơn thủy xoay quanh phong lân kỳ tú, y
như núi Bửu Lâm bên Tây Thiên”. Liền bảo cư dân thôn Tào
Hầu:
- “Khá
nên kiến lập một cảnh chùa nơi núi này, 170 năm sau sẽ có
vô thượng pháp bửu diễn hóa nơi đây, kẻ đắc đạo như rừng,
nên để hiệu Bửu Lâm”.
Bấy giờ
nơi Thiều Châu, quan Châu mục Hầu Kính Trung theo lời này
dâng biểu tấu, vua y lời thỉnh cầu, sắc tứ bảng đề là Bửu
Lâm Phật điện, thuộc về niên hiệu Thiên Giám đời Lương năm
thứ 3. Trước chùa có một sở đầm, rồng thường trồi lặn nơi
đó, rung động rừng cây. Ngày nọ rồng hiện h́nh lớn, nổi
sóng sôi vọt, mây mù che lấp, đồ chúng sợ hải.
Tổ nạt rồng, bảo:
-
“Ngươi chỉ hiện được h́nh lớn chẳng hiện thân nhỏ, nếu là
thần long th́ biến hóa lớn nhỏ đều được.”
Rồng
hốt nhiên lẩn mất, khoảnh khắc lại hiện nhỏ, vọt nổi lên.
Đại Sư đưa bát thử rồng:
-
“Người lại không dám vào bát của lăo tăng?”
Rồng
hớn hở bơi đến trước. Đại Sư lấy bát hứng rồng, rồng không
thể cử động. Đại sư bưng bát về chùa thuyết pháp cho rồng
nghe, rồng liền lột xác thăng mất. Bộ xương dài lối 7 tất,
đầu đuôi, sừng, chân đủ cả, lưu truyền tại cửa chùa. Sau
Đại Sư dùng đất và đá lấp đầm này.
Nay
trước điện bên trái có tháp bằng sắt để trấn tại đó. Đại
Sư có viên đá trị yêu, chạm 8 chữ: “Long Sóc nguyên
niên Lư cư sĩ chí.” Đá này trước để ở viện Đông Thiền,
huyện Huỳnh Mai.Đến Vương Duy đời Đường, Thần Hội đại sư
làm bài Tổ sư kư, rằng:
- “Đại
sư chung lộn với nhóm lao động đến 16 năm, gặp Ấn Tông
giảng kinh, nhân đó mới thế phát”.
Lại Thứ
sử Liễu Tông Nguyên làm bia thụy hiệu Tổ sư: “Sư thọ tín
cụ, ẩn nơi Nam Hải trọn 16 năm, đến lúc nên hành đạo, Sư
về Tào Khê làm thầy dạy người đời”.
Lại
Thừa tướng Trương Thượng Anh biên bài kư Ngũ Tổ rằng: “Ngũ
Tổ diễn hóa nơi huyện Huỳnh Mai, Đông Thiền viện, v́ muốn
tiện bề phụng dưỡng mẹ già, nên niên hiệu Long Sóc truyền
Y Pháp cho Lục Tổ rồi giải tán đồ chúng, tạo am ở Đông Sơn,
có cư dân Phùng Mậu hiến núi cho Ngũ Tổ làm đạo tràng”.
Do đó
mà suy, Lục Tổ đến Huỳnh Mai thừa thọ Y Pháp của Ngủ Tổ,
thật là niên hiệu Long Sóc năm Tân Dậu, đến Nghi Phụng
Bính Tư 16 năm, Sư mới đến chùa Pháp Tánh xuống tóc.
LỜI BẠT
--
*** --
Lúc b́nh sanh, Lục Tổ Đại
Sư thuyết pháp tông chỉ Đại thừa viên đốn, nên gọi
KINH.
Lời giản dị, ư nghĩa rơ sáng, tông chỉ sâu xa. Người đọc
hoặc tụng đều được lợi ích. Minh Giáo Khiết Công thường
khen: “Người thông minh thấu rơ được chỗ thâm sâu, người
mê dốt th́ cũng hiểu được chút ít ”. Lời nói ấy rất thành
thật.
Tôi - người viết lời Bạt
này - mới vào đạo, cảm động về lời nói đó. Nhưng đọc qua 3
bản
KINH
PHÁP BẢO ĐÀN, thấy
có nhiều chỗ sai biệt, thiếu sót, v́ bị hư mất, mục hoặc
rách nát, nên tôi đối chiếu 3 bản khác nhau, thấy chỗ nào
không ổn th́ hiệu chính, chỗ nào sơ lược quá th́ viết rơ
ra. Dịp này nhờ cơ duyên, tôi được vị Án Sát Vân Công, quí
danh Tùng Long, thâm hiểu về tông chỉ Tào Khê, dẫn giải
thêm. Ngày nọ, qua sơn pḥng, chỗ các vị biên chép, Tùng
Long xem bản của tôi, thấy được toàn bộ
ĐÀN
KINH, Ông rất cảm
kích, nên xin cho phổ biến, để Tông phái Tào Khê không
đoạn tuyệt. Có người cho rằng: “Đạt Ma Tổ Sư không lập văn
tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”, và ngài đă
nói: “Một hoa sanh 5 cánh là chánh truyền”, đó không phải
văn tự sao? Tôi nói Kinh này phi văn tự vậy. Tổ Đạt Ma đơn
truyền tông chỉ là chỉ thẳng, và Nam Nhạc, Thanh Nguyên,
nhị vị đại lăo sư dùng tông chỉ này làm sáng tỏ tâm của
ḿnh mà c̣n mở sáng cho hai vị Mă Tổ, Thạch Đầu. Nay Thiền
Tông được truyền bá khắp thiên hạ là xuất phát từ tông chỉ
này.
Từ nay về sau, người đời
há không phải nhờ Tông Chỉ này mà được minh tâm kiến tánh
sao? Ai hỏi, chỉ bái tạ, đáp: “Tôi chẳng dám, chỉ xin giới
thiệu thôi”.
Chí Nguyên, Tân Măo, mùa
Hạ. Nam Hải Thích Tông Bửu,
BẠT.
LỊCH TRIỀU SÙNG PHỤNG SỰ TÍCH
*-
Đường Hiến Tông Hoàng đế, Ích Đại sư gọi Đại Giám thiền sư.
*- Tống
Thái Tông Hoàng đế, Gia Ích Đại Giám Chơn Không thiền sư,
chiếu biên tên tháp của Sư: Tháp Thái B́nh hưng quốc.
*- Tống
Nhơn Tông Hoàng đế, Thiên Thánh năm thứ 10, nghinh chơn
thân Sư cùng Y Bát vào đại nội thành cúng dường, Gia Ích
Đại Giám Chơn Không Phổ Giác thiền sư.
*- Tống
Thần Tông Hoàng đế, Gia Ích Đại Giám Chơn Không Phổ Giác
viên minh thiền sư.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Kinh
Pháp Bảo Đàn: 3 bản trong kinh Đại tạng
(Hán
ngữ)
- Phật học Đại tự điển của Trọng Hỗ Đinh Phước Bảo
(Hán
ngữ)
-
Phật học tự điển của Đoàn Trung C̣n
(Việt ngữ)
-
Hán Việt tự điển của Thiều Chửu
-
Hán Việt tự điển của Đào Duy Anh
- Cổ
kim Hán Việt Ngữ tự điển của Trần Văn Chánh
-
Các bản dịch Kinh Pháp Bảo Đàn của các dịch giả sau đây:
* -
Đoàn Trung C̣n, Tịnh độ cư sĩ
* -
Giáo sư Từ Quang
* -
Thiền sư Minh Trực
* - Tạp
chí Từ Bi Âm, Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học
* - Tạp
chí Pháp Âm Phật học, Trà Vinh
* - Hoà
thượng Thích Mẫn Giác
* - Hoà
thượng Từ Quang
* - Hoà Thượng Thích Thanh Từ
* - Tỳ Kheo Thích Duy Lực
* - Tỳ Kheo Thích Nguyên Ngôn
(Anh quốc)
* - Trí Hải
* - Cư Sĩ Mai Hạnh Đức
* - Cư Sĩ Đinh Sĩ Trang
* - Thiều Chủ
XIN CHÚ Ư
-- *** --
- Kinh PHÁP BỬU ĐÀN chỉ kính biếu.
- Bản gốc có chữ kư của người dịch, được lưu trữ tại hội
sở
PGHH hải ngoại dùng làm tài liệu tham khảo và đối
chiếu.
- Mọi trích đoạn, sửa chữa, yêu cầu chú thích rơ.
- Địa chỉ liên lạc:
Mr. Hồ Minh Châu
50, rue des Chalets
94450 Limeil Brevannes
FRANCE

|