CHƯƠNG 2
2.1 Những
Vấn Đề Chung Quanh
Danh Hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát (*)
Người Trung
Hoa có thể đă không biết đến Bồ Tát Quán Thế Âm nếu như kinh
điển của Phật giáo đă không được dịch qua Hán văn. Kinh điển
v́ thế được xem như là phương tiện đầu tiên mà từ đó tín ngưỡng thờ
phượng Quán Âm được xây dựng và chuyển hóa. Thế nhưng cho dù tính
cách quan trọng của kinh điển thường được giới Phật tử tinh hoa xem
như khuôn vàng thước ngọc, quả là một điều ngây thơ nếu cho rằng tất
cả kinh văn đều được các Phật tử thuần thành nghiên cứu đọc qua hoặc
bất cứ những ǵ vạch ra trong kinh điển đều được tất cả mọi tín đồ
hoàn toàn tuân thủ. Khi nghiên cứu Phật giáo một cách tổng quát, hay
cụ thể hơn đối với trường hợp Bồ Tát Quán Thế Âm, chúng ta phải để ư
đồng đều đến hai khía cạnh, một bên là bức tranh lư tưởng xuất hiện
trong sách vở, một bên là mặt thực tế của quần chúng đang thực hành
được minh họa bởi những khắc họa, lịch sử mỹ thuật, lễ nghi tế tự
cũng như trong văn chương nghệ thuật. Gregory Schopen đă từng nêu rơ
rằng, khi những nhà nghiên cứu về Phật giáo (cũng như nghiên cứu về
tôn giáo nói chung) chỉ hoàn toàn dựa vào kinh điển, kết quả thường
là méo mó nếu không nói là hoàn toàn sai lạc (1). Trên một b́nh
diện khác, chỉ khi nào chúng ta biết được Bồ Tát Quán Âm đă được
tŕnh bày như thế nào trong kinh điển nguyên thủy chúng ta mới đánh
giá đúng mức tiến tŕnh chuyển hóa đặc biệt mà vị Bồ Tát này đă trăi
qua tại Trung quốc. Bằng vào việc khảo sát kỷ lưỡng những khoảng
cách giữa một Quán Âm Trung hoa và h́nh ảnh ban đầu của Ngài trong
kinh điển ta mới có thể có được những hiểu biết một cách tường tận
về vị Bồ Tát này.
Đă có một số lượng khá
lớn kinh sách Phật giáo nói về Bồ Tát Quán Âm. Cụ thể như học giả
Hậu Đằng Đại Dụng (Goto Daiyo) đă liệt kê ra khoảng hơn 80 bộ kinh
trong đó có sự xuất hiện của Bồ Tát (2). Danh sách này
không phải ngưng lại ở đây bởi v́ chỉ nội những kinh điển Mật tông
liên quan đến Bồ Tát cũng đă lên tới 88, chiếm hết 506 trang trong
bộ Đại Chính Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho, vol. 20), bộ Tam Tạng
kinh điển Trung quốc ấn bản mới nhất được in tại Nhật bản vào năm
1922-23. Khi chúng ta khảo sát những kinh điển này, một điều rất dễ
nhận ra là vai tṛ của Bồ Tát không phải lúc nào cũng đồng nhất,
giống nhau.
Những vai tṛ của
Avalokitesvara rất đa dạng, từ một nhân vật khiêm nhường trong đoàn
tùy tùng thị giả bao quanh Đức Phật Thích Ca đến một ngôi sao độc
chiếm trên bầu trời riêng rẻ như là một đấng cứu rỗi toàn năng.
Những khuôn mặt của Bồ Tát trong kinh điển, cũng như trong mỹ thuật
và các phương tiện thể hiện khác đă nói lên những tiếng nói khác
nhau, đa năng và đa diện. Từ khiêm nhường đến quan trọng, ta có thể
liệt kê ra bốn vai tṛ chính như sau:
(1) như là một nhân vật mờ nhạt
trong phối cảnh;
(2) vị thị giả chính và là vị
Phật tương lai kế vị Phật Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang (A Di
Đà);
(3) người tiết lộ những phương
thức cứu độ hiệu quả thông qua việc niệm danh hiệu của Bồ Tát hoặc
nói ra những câu thần chú đặc biệt do yêu cầu của Đức Bổn Sư Thích
Ca Mâu Ni, Bồ Tát đă nổi bật như một nhân vật chuyên giải cứu khổ
nạn và đôi khi c̣n được biết đến như là một vị Phật quá
khứ.
(4) một linh thần độc lập
chuyên cứu khổ cứu nạn.
Mặc dù các vai tṛ 2, 3 và 4
đều xuất hiện tại Trung Quốc (vai tṛ 1 không được chú ư đến) nhưng
chỉ có vai tṛ 4 là đóng vai tuồng chủ yếu. Những vai tṛ khác nhau
mà Bồ Tát Avalokitesvara thể hiện trong kinh điển có thể đă phản ảnh
tầm vóc quan trọng của Bồ Tát ngày càng gia tăng. Mặt khác chúng
cũng có thể đă phản ảnh những khuynh hướng của các truyền thống giáo
phái khác nhau tôn thờ Bồ Tát. Người ta thấy có ít nhất ba khuynh
hướng tín ngưỡng khác biệt: Tôn thờ Bồ Tát như là một nhân vật Đại
Từ Đại Bi chuyên cứu độ chúng sanh được thể hiện qua kinh Pháp Hoa;
xem ngài như là vị thị giả chính của Phật A Di Đà trong các kinh
sách Tịnh Độ; là vị thánh giả có quan hệ với ḥn đảo thánh địa Bồ Đà
Lạc Ca (Potalaka) trong huyền thoại Phật giáo được đề cập đến trong
kinh Hoa Nghiêm. Ba truyền thống tín ngưỡng này đă hoàn toàn phát
triển độc lập với nhau. Trong các kinh điển Mật tông, đảo Bồ Đà Lạc
Ca được mô tả như là nơi trụ xứ của Bồ Tát
Avalokitesvara.
Trong khi nghiên cứu các
kinh điển, tôi đă sử dụng phương pháp phân loại học dựa vào sự gia
tăng tầm mức quan trọng của Bồ Tát thay v́ liệt kê và đặt chúng phụ
thuộc vào các truyền thống tông phái Phật giáo Trung Quốc chẳng hạn
như kinh Pháp Hoa với Thiên Thai tông, kinh Hoa Nghiêm với Hoa
Nghiêm tông, kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng thọ kinh với Tịnh Độ
tông, hoặc Tâm Kinh và Thủ Lăng Nghiêm với Thiền Tông. Mặc dù nếu
chúng ta liệt kê theo h́nh thức này có thể là một bằng chứng cho
thấy rằng Quán Âm Bồ Tát đă được tôn thờ bởi hầu hết các tông phái
chính của Phật giáo Trung Quốc, tuy nhiên không phải là không có lư
do cho thấy tại sao đây không phải là cách thức xếp loại tốt. Trước
tiên bởi v́ trong khi những kinh sách này được kể như là những kinh
điển cơ bản của các tông phái đó, giới tăng sĩ Trung quốc –chưa kể
đến những Phật tử b́nh thường- đă không hề học tập kinh điển gắn
liền với tông phái của họ. Những kinh điển này cùng với một số kinh
điển Mật tông khác đă được ưa chuộng bởi tất cả những người sùng mộ
Quán Âm không phân biệt tông phái, thế cho nên quả là điều gượng ép
vô nghĩa khi cột chúng vào một sự phân chia giả tạo. Hơn thế nữa,
như đă tŕnh bày trước đây, khuynh hướng tổng hợp các tông phái khác
biệt ngày càng mạnh mẽ kể từ thời Tống trở đi, bởi vậy tốt nhất là
ta không nên áp đặt một sự phân chia tông phái triệt để theo mô h́nh
Nhật Bản đối với thực tế Trung Quốc (3).
Phương pháp phân loại học ở đây
đặt căn bản trên vị trí và vai tṛ của Bồ Tát. Nó giúp cho ta hiểu
được lư do tại sao người Trung quốc đă lựa chọn và đặt trọng tâm
trên một số kinh điển đặc biệt nào đó, bởi v́ những kinh điển này
trước tiên đă làm nổi bật vai tṛ trung tâm của Bồ Tát Quán Âm như
là một nhân vật cứu khổ cứu nạn. Trong khi quan tâm đến những vai
tuồng khác biệt của Bồ Tát tôi đồng thời cũng lưu ư đến những danh
hiệu và h́nh tướng của Ngài đă được mô tả trong những kinh sách này.
Bồ Tát
Quán Âm
Nhân Vật Trong Đoàn Tuỳ
Tùng Thị Giả của Đức Phật.
Một trong những bộ kinh
sớm nhất đề cập đến Bồ Tát dưới danh hiệu Quán Âm là “Thành Thủ
Quang Minh Định Ư Kinh”, một cuốn kinh trong hệ Bát Nhă do ngài Chi
Diệu dịch ra Hán Văn vào năm 185. Bồ Tát Quán Âm là người cuối cùng
trong số ba mươi vị Bồ Tát được gọi là “minh sĩ” (4). Đây là một trong
những cuốn kinh được dịch ra Hán văn sớm nhất, chưa đầy 40 năm sau
khi nhà sư người An Tức, An Thế Cao, đến Lạc Dương vào năm 148 thực
sự mở đầu phong trào truyền pháp vào Trung Hoa (5). Phải nói rằng
người khai sơn phá thạch đóng góp công đầu trong việc dịch thuật
kinh điển từ Phạn ngữ qua Hán văn là ngài Chi Ca Lâu Sấm
(Lokaksema), sống cùng thời với ngài Chi Diệu. Trong số những bộ
kinh này, nhà học giả chuyên nghiên cứu về công tŕnh dịch thuật của
Chi Ca Lâu Sấm, Paul Harrison (1993), hiện nay chỉ chấp nhận chín bộ
kinh là xác thực. Khi nghiên cứu những cuốn kinh này, người ta khám
phá ra một điều khá thích thú là: Bồ Tát Avalokitesvara đă không hề
thấy xuất hiện trong bất cứ cuốn kinh nào, dù chỉ đóng một vai tṛ
rất khiêm nhượng. Hầu như Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi và thỉnh thoảng Di
Lặc Bồ Tát thường là vị thượng thủ dẫn đầu những Bồ Tát tham dự pháp
hội. Cũng chẳng có ǵ là khó hiểu tại sao Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi mà
không phải Bồ Tát Avalokitesvara được nhắc nhở đến, v́ tất cả những
cuốn kinh này đều thuộc hệ Bát Nhă vốn xem trọng trí tuệ mà Bồ Tát
Văn Thù Sư Lợi là đại biểu trong khi Bồ Tát Avalokitesvara là đại
biểu của từ bi. Avalokitesvara được gọi là Khuy Âm trong kinh
Ugrapariprccha (6) do nhà dịch giả người An Tức, An Huyền (ca.180). Trong
kinh Duy Ma Cật do cư sĩ Chi Khiêm dịch (ca. 220-252) cũng gọi ngài
bằng một danh xưng tương tự (7). Trong hai cuốn
kinh này, Bồ Tát Avalokitesvara đă xuất hiện cùng với khoảng năm
mươi vị Bồ Tát khác. Và rồi Ngài đóng một vai tṛ quan trọng hơn khi
cùng với Bồ Tát Đại Thế Chí trở thành hai vị Bồ Tát hàng đầu được
nói đến trong các kinh điển về cơi Tây Phương Cực Lạc của vị Phật
Đại Thừa, A Di Đà, cụ thể là trong cuốn kinh Vô Lượng Thọ Phật với
đoạn văn liên hệ nói về Bồ Tát Avalokitesvara như sau:
Có hai Bồ Tát tối tôn
đệ nhứt oai thần quang minh chiếu khắp cơi Đại Thiên.
-
Bạch đức Thế Tôn Hai Bồ Tát ấy
danh hiệu là ǵ?
- Nầy A Nan! Bồ Tát thứ nhứt
hiệu là Quán Thế Âm, Bồ Tát thứ hai hiệu là Đại Thế Chí. Hai Bồ Tát
ấy ở cơi nước Ta Bà nầy tu Bồ Tát hạnh, lúc mạng chung chuyển sanh
về nước An Lạc.
- Nầy A Nan! Có chúng sanh
nào sanh về nước An Lạc, thân của họ đều đầy đủ ba mươi hai tướng
tốt, thành măn trí huệ thâm nhập diệu pháp, thần thông vô ngại, các
căn sáng suốt mau lẹ. Người căn trí chậm lụt nhứt th́ thành tựu hai
pháp nhẫn. Người căn trí lanh lợi th́ được vô lượng vô sanh pháp
nhẫn.
Hán dịch: Tào
Nguỵ, Pháp Sư Khương Tăng Khải
Việt dịch: Việt
Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Đây là một trong những
cuốn kinh Đại Thừa được dịch sang Hán Văn sớm nhất. Cuốn kinh này đă
được dịch cả thảy 12 lần trong đó năm dịch bản vẫn c̣n tồn tại cho
đến ngày nay. Dịch giả của những bản văn này đến nay vẫn c̣n là
nguồn tranh căi (8). Trong số những bản văn c̣n tồn tại, bản dịch sớm nhất
được xem như là của Ngài Chi Ca Lâu Sấm với tựa đề Phật Thuyết Vô
Lượng Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác Kinh (9) trong đó Quán Âm
và Thế Chí luôn luôn là hai vị Bồ Tát thị giả của Đức Phật A Di Đà
có năng lực hóa hiện khắp mười phương cơi Phật. Kinh này không nhấn
mạnh đến biểu tượng ánh sáng nhưng tuyên xưng rằng, “Ngay trong
thế gian, nếu các thiện nam và các thiện nữ, gặp lúc cấp nạn, rơi
vào khủng bố, quay về nương tựa, Bồ Tát Quán Âm, đều được giải
thoát”. Tuy nhiên trong Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh, mà bản
dịch theo truyền thống cho là của ngài Khang Tăng Ngăi người nước
Khang Cư vào năm 252 (10)
đă đề cập đến vầng hào quang oai nghiêm của hai
vị Bồ Tát này với “oai thần quang minh, chiếu khắp tam thiên đại
thiên thế giới.” Năm 1160, một tín đồ thuần thành của Tịnh Độ tông,
cư sĩ Vương Nhật Hưu, đă kết tập bộ Đại A Di Đà Kinh bao gồm
tất cả những kinh điển Hán tạng liên quan, trong đó cũng đă nhấn
mạnh đến vầng hào quang và năng lực cứu độ của Bồ
Tát:
Phật A Di Đà cùng tất cả
hàng Bồ Tát và Thanh Văn trong cơi nước Tịnh Độ từ trên đỉnh đầu
phóng quang đến khắp mọi hướng. Các chúng Thanh Văn trong cơi Phật ấy, ánh
sáng nơi ḿnh phóng xa bảy trượng c̣n các
Bồ Tát có thể phóng quang đến vô số hàng vạn ức do tuần. Trong
số này có hai vị Bồ Tát tôn qúy vào bậc nhất. Một vị là Quán Thế Âm
và vị kia là Đại Thế Chí luôn luôn kế cận Đức Phật và đỡ đần ngài
trong mọi công việc. Phật A Di Đà và hai vị Bồ Tát cùng bàn bạc mọi
chuyện hiện tại và tương lai của quốc độ mười phương thế giới. Khi
Đức Phật muốn sai phái họ đến các cơi Phật khác, các Ngài có thể ứng
hiện đến đó ngay lập tức bằng đôi chân thần kỳ như là của một vị
Phật. Các Ngài cũng có thể phân thân hóa hiện đến cơi Ta Bà này để
độ chúng. Mặc dầu các Ngài hiện diện ở đây thế nhưng không bao giờ
vắng mặt ở cơi Tây phương Tịnh Độ.
Nguồn cảm hứng từ cuốn
kinh này đă được phản ánh ngay vào mỹ thuật. Một trong những bức
tượng Tây phương Tam Thánh sớm nhất có niên đại vào khoảng 420C.E.
đă được t́m thấy tại hang động 169 Bỉnh Linh Tự, Tây bộ Cam Túc.
Danh hiệu của các vị Bồ Tát đă được khắc rơ ràng trên ṿng khung
trang trí. Trong h́nh người ta thấy Bồ Tát Quán Thế Âm đứng ở
bên trái của Phật A Di Đà trên tay cầm một bông sen đang nở. Điều
này là một minh chứng cho sự khởi đầu của tín ngưỡng Tịnh Độ tại
Trung Quốc. Được cổ vũ nồng nhiệt bởi đại sư Huệ Viễn (344-416),
nguồn cảm hứng Tịnh Độ đă bắt đầu được phản ánh qua mỹ thuật thể
hiện niềm tin vào cả Phật A Di Đà, Bồ Tát Quán Âm cũng như cảnh giới
tuyệt vời của Tây Phương Tịnh Độ. Một văn bia được khai quật tại tu
viện Vạn Phật, thuộc địa phận Thành Đô tỉnh Tứ Xuyên không xác định
niên đại nhưng được t́m thấy cùng với những văn bia khác có niên đại
trong khoảng từ 530 đến 580 C.E., mặt trước khắc họa h́nh hai vị Bồ
Tát mà chiếc đầu đă bị hư bể (có thể là Quán Âm và Thế Chí, hai vị
thị giả của Phật A Di Đà) và mặt sau ngay trung tâm là h́nh Phật A
Di Đà, trong đó cảnh giới Tịnh Độ được thể hiện bằng một hoa viên
với những con sông đào tượng trưng cho ao tái sanh nơi mà những
người sanh về cảnh giới Tây phương đang bơi lội giữa những bông sen
đang hé nở. Khoảng chừng năm mươi năm sau, cũng chung nguồn cảm hứng
tái sanh về Tây phương Tịnh Độ đă đưa đến những sáng tạo nghệ thuật
tương tự tại miền Bắc, cụ thể là tại hang động số 2, phía nam
Thưởng Đường Sơn dưới thời Bắc Tề (550-577) cũng đă khắc họa một
cảnh tượng tái sanh vào Tịnh Độ tương tự như tại Tứ Xuyên
(11). Những
tranh khắc họa về cảnh giới Tịnh Độ và Tây Phương Tam Thánh đă trở
thành những đề tài chính của mỹ thuật Trung hoa trong những thời kỳ
tiếp theo sau đó.
BỒ TÁT QUÁN
ÂM,
VỊ PHẬT
TƯƠNG LAI KẾ VỊ PHẬT A DI ĐÀ
Một vài kinh điển Hán
tạng trong thời kỳ sơ khởi đều chia xẻ một chủ đề chính là Bồ Tát
Quán Âm được Phật thọ kư trở thành một vị Phật tương lai. Hai trong
số những cuốn kinh này nay đă không c̣n tồn tại nhưng căn cứ vào
tiêu đề, người ta thấy có nội dung tương tự như trong Quán Thế Âm Bồ
Tát Thọ Kư Kinh, do nhà sư người nước Vu Điền, Dharmodgata, dịch vào
năm 453 (12). Trong cuốn kinh này Đức Thích Ca Mâu Ni đă tiết lộ
rằng vào thời quá khứ xa xưa Ngài là một vua sống dưới thời một vị
Phật mà cơi Phật này c̣n bao la rộng lớn hơn là của Phật A Di Đà.
Trong khi nhà vua đang thiền định ở trong vườn thượng uyển rồi nhập
vào tam muội th́ hai cành sen mọc lên từ ḷng đất vươn dài đến hai
bên tả hữu của vua và hai đồng nam được sinh ra từ những đóa sen
này. Một người là Quán Âm và người kia là Thế Chí. Sau khi Đức Phật
A Di Đà nhập niết bàn và cũng là lúc chấm dứt thời kỳ Chánh Pháp, Bồ
Tát Quán Âm sẽ thành Phật hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Như
Lai (13).
Trong kinh Bi Hoa (Karuna Pundarika Sutra) do ngài Đàm Vô Sấm dịch
vào khoảng năm 414-426 cũng kể lại một câu chuyện tương tự. Ở đây,
Quán Thế Âm nguyên là Thái tử trong số một ngàn hoàng tử, con của
một vị chuyển luân thánh vương. Nhưng rồi Ngài đă phát hạnh nguyện
Bồ Tát với vị Phật Bảo Tạng và được thọ kư trở thành vị Phật kế tục
Phật A Di Đà mang cùng một danh hiệu tương tự như trên (Quang Minh
Công Đức Sơn Vương Như Lai) (14).
Mối liên hệ giữa Phật A Di Đà
và Bồ Tát được tŕnh bày trong những kinh điển này phảng phất mối
quan hệ thế tập trong chế độ quân chủ hay cụ thể hơn, mối quan hệ
huyết thống giữa cha và con. Chính màu sắc vương giả và liên hệ
huyết thống này đă gây ấn tượng mạnh mẽ và rất phù hợp với cảm quan
của người Trung Hoa, thế cho nên một trong những cuốn kinh do người
bản địa sáng tác sớm nhất, Quán Thế Âm Bồ Tát Văng Sanh Tịnh Độ Bổn
Nguyện Kinh, đă được xây dựng chung quanh chủ đề này. Được đề cập
đến trong cuốn Mục Lục kết tập vào khoảng năm 265-316 với dịch giả
khuyết danh, cuốn kinh này đă giới thiệu h́nh ảnh Đức Thích Ca Mâu
Ni như là người cha, và A Di Đà là mẹ cùng hai người con trai là
Quán Thế Âm và Đại Thế Chí. Tô đậm chung quanh những t́nh tiết liên
quan đến cái chết đau thương của người mẹ hiền và sự đối xử độc ác
của người kế mẫu, câu chuyện đă nói lên một nhận thức khá độc đáo
của người bản địa về mối liên hệ giữa những nhân vật trung tâm trong
các kinh điển Phật giáo.
Quán Âm và Quán Thế Âm do đó là
những danh hiệu được dùng luân phiên trong những dịch bản kinh điển
sớm nhất. Một số các nhà học giả trong đó có Đinh Phước Bảo
(1874-1952) cho rằng Quán Âm là một danh xưng rút gọn của Quán Thế
Âm chỉ được dùng dưới triều đại nhà Đường để tránh phạm húy v́ tên
tộc của Hoàng đế Đường
Thái Tông (627-649) là Lư Thế Dân (15). Điều này rơ ràng
là không có cơ sở bởi v́ trong thực tế danh hiệu Quán Âm đă xuất
hiện trước cả Quán Thế Âm và danh hiệu này đă trở nên nổi tiếng khi
được ngài Cưu Ma La Thập dùng trong bản dịch kinh Pháp Hoa vào năm
406. Trong tất cả những kinh điển ban đầu này, người ta không thấy
đề cập đến h́nh tướng dung mạo cũng như ư nghĩa về danh hiệu của Bồ
Tát. Về điểm sau, chúng ta cần đi sâu vào kinh Pháp Hoa để t́m những
lư giải.
BỒ TÁT
QUÁN ÂM
Vị Bồ
Tát Chuyên Cứu Khổ Cứu Nạn
Một trong những bộ kinh quan
trọng tuyên xưng vai tṛ của Bồ Tát Quán Âm là kinh Pháp Hoa. Bộ
kinh này đă được dịch sang Hán văn cả thảy sáu lần trong đó ba dịch
bản vẫn c̣n tồn tại đến bây giờ. Năm 1992 nhà học giả Nhật Bản
Karashima Seishi đă đem đối chiếu những bản dịch Hán Văn này với
nguyên bản Phạn ngữ và những bản dịch Tạng văn. Bản dịch đầu tiên là
của ngài Đàm Ma La Sát, người xứ Nhục Chi, vào năm 286 mang tựa đề
là Chánh Pháp Hoa Kinh. Phẩm thứ 23 của bộ kinh này có tên là
Phổ Môn dành riêng để nói về Bồ Tát Avalokitesvara, dưới danh
hiệu là Quang Thế Âm (Abhalokasvara). Đây là vị Bồ Tát chuyên
cứu khổ ban vui, có năng lực cứu vớt con người ra khỏi bảy khổ nạn,
giải phóng họ ra khỏi tam độc tham, sân, si cũng như giúp những
người sinh đẻ hiếm muộn được toại nguyện khi muốn cầu xin con trai
hay con gái. Sau đây là đoạn kinh văn liên hệ đến danh hiệu Bồ
Tát:
Phật bảo ngài
Vô-Tận-Ư Bồ-Tát: " Nếu có chúng sanh đối diện với vô lượng trăm ngh́n muôn ức các khổ
năo, hoạn nạn, nghe đến danh hiệu Quang-Thế-Âm Bồ-Tát tức th́
liền được giải thoát, xa rời mọi khổ nạn. Do nhân duyên đó mà gọi là
Quang-Thế-Âm.
Nếu có người nhớ
tưởng đến danh hiệu Quang-Thế-Âm Bồ-Tát này, dầu rớt vào trong biển
lửa lớn, phủ trùm hết thảy đồi núi ruộng đồng, đốt cháy hết rừng
bụi, nhà cửa, ngọn lửa kia sẽ chẳng cháy được khi y nghe đến danh
hiệu Bồ-Tát Quang Thế Âm.
Nếu có người đi
vào sông lớn, đang kinh hoàng trước gịng cuồng lưu chảy xiết, khi
niệm đến danh hiệu Quang Thế Âm này và nhất tâm t́m về nương
tựa vào Bồ Tát, năng lực siêu phàm của Ngài liền cứu giúp cho khỏi
ch́m đắm và đưa đến nơi chốn an toàn.
Nếu có trăm
ngh́n muôn ức chúng sanh v́ t́m san-hô, hổ-phách, trân châu các thứ
báu… vào trong biển lớn, giả sử gió lớn thổi ghe thuyền của kia sắp
bị nhận ch́m bởi quỉ La-sát, trong ấy nếu có nhẫn đến một người thầm
nghĩ đến năng lực của Bồ Tát và xưng danh hiệu của Ngài, th́ các
người đó đều được thoát nạn. (Đoạn tiếp theo mô tả năng lực của Bồ
Tát cứu độ con người ra khỏi các ác nạn: Gió bảo, khí giới, quỷ mị,
tù đày, và đạo tặc, tất cả đều do niệm đến danh hiệu của Bồ Tát).
Cảnh giới của
Quang Thế Âm là vô cùng vô tận v́ ở đó có đầy đủ năng lực
siêu phàm của Bồ Tát. Bởi Ngài tràn đầy ánh sáng (quang), do nhân
duyên đó mà có tên gọi là Quang Thế Âm. (16).
Bản dịch Pháp Hoa đầu
tiên này đă cho thấy một điều rất rơ rằng, nghe và niệm đến danh
hiệu của Bồ Tát là lư do chính để những người tin vào Ngài sẽ được
cứu độ và v́ Bồ Tát có liên hệ rất mật thiết với ánh sáng, thế nên
Ngài đă được gọi là “Quang Thế Âm”. John Holt trong “Buddha in the
Crown” đă đưa ra nhận xét rằng, một trong những nét đặc trưng nổi
bật trong các kinh điển nói về Bồ Tát Avalokitesvara là biểu tượng
ánh sáng (1991:31-34). Mối quan hệ giữa Bồ Tát và “âm thanh” đă
không được đề cập đến. Honda Yoshihide đă đưa ra một luận cứ khả tín
rằng danh hiệu Quang Thế Âm có ư nghĩa tương tự như “Tiên Âm Sanh”.
Đây là danh hiệu của một vị Bồ Tát tương ứng với Bồ Tát
Avalokitesvara trong Phóng Quang Bát Nhă kinh (17) do nhà sư xứ Vu
Điền, Vô La Xoa (Moksala), dịch vào năm 291, năm năm sau bộ Chánh
Pháp Hoa kinh. Trong cả hai bộ kinh đều có đề cập đến việc Bồ Tát
phóng quang hoặc giải thoát thế gian thông qua ngôn ngữ hoặc âm
thanh vi diệu. Âm thanh mang năng lực giải thoát là một phẩm chất
đặc biệt của Bồ Tát không phải là loại “âm thanh” thông thường thốt
ra bởi những than thở khổ đau của nhân thế. (18)
Bản dịch kế tiếp c̣n được
lưu hành hiện nay là của ngài Cưu Ma La Thập, nhà dịch giả nổi tiếng
người nước Khâu Tư mang tên là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, được
hoàn tất vào năm 406. Bản kinh này cùng với một bản dịch thứ ba có
tựa đề Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh do Ngài Xà La Quật
Đa (Jnanagupta) và Đạt Ma Cấp Đa (Dharmagupta) dịch vào năm 601 đă
tŕnh bày một cái nh́n khác biệt so với bản dịch cũ. Hai bản dịch
sau này đă trở thành cơ sở diễn giải chính thống về danh hiệu của Bồ
Tát trong khắp vùng Tây Á. Trong cả hai bản dịch, danh hiệu của Bồ
Tát được gọi là Quán Thế Âm. Phẩm Phổ Môn là phẩm thứ 25
trong bản dịch của Cưu Ma La Thập c̣n bản dịch của Xà La Quật Đa và
Đạt Ma Cấp Đa th́ thuộc phẩm thứ 24. Nguyên thủy cả hai bản dịch của
ngài Đàm Ma La Sát và Cưu Ma La Thập đều không có phần Kệ Tụng ở
cuối kinh duy chỉ có bản dịch của Ngài Xà La Quật Đa và Đạt Ma Cấp
Đa là có phần này. Trong ba cuốn kinh Diệu Pháp Liên Hoa th́ bản
dịch của ngài Cưu Ma La Thập là phổ thông nhất tại Trung quốc, do đó
sau này người ta đă thêm vào phần Kệ Tụng. Trong bản kinh này khi Bồ
Tát Vô Tận Ư hỏi Phật lư do tại sao Bồ Tát Quán Thế Âm lại mang danh
hiệu như thế, Phật đă trả lời: “Thiện-nam-tử! Nếu có vô lượng trăm ngh́n muôn
ức chúng sanh chịu các khổ năo, nghe Quán-Thế-Âm Bồ-Tát này một ḷng
xưng danh. Quán-Thế-Âm Bồ-Tát tức th́ xem xét tiếng tăm
kia, đều được giải thoát.” (Watson 1993:298-99- Bản Việt dịch của HT Thích Trí
Tịnh, Phẩm Phổ Môn). Trong bản kinh này đă nêu lên một yêu cầu duy
nhất cho một người muốn được cứu vớt là chỉ cần xưng danh hiệu của
Bồ Tát. Câu văn cốt lơi được viết bằng chữ in nghiêng ở trên đă
không có trong bản dịch của ngài Đàm Ma La Sát: Bồ Tát xem xét, lắng
nghe hoặc nhận ra âm thanh thốt ra bởi những người niệm danh hiệu
của Ngài. Danh hiệu “Quán Thế Âm” như vậy đă mang một ư nghĩa khá rơ
ràng.
Những nhà chú giải Trung
Hoa đă lư giải danh hiệu của Bồ Tát bằng cách nhấn mạnh đến sự liên
hệ giữa khả năng quán xét, nhận biết với những âm thanh kêu cầu đến
danh hiệu Ngài của những tín đồ. Tăng Triệu (374-414) một môn đệ
hàng đầu của ngài Cưu Ma La Thập, trong “Chú Giải về Kinh Duy Ma
Cật” đă viết: “Ngài Cưu Ma La Thập nói rằng bất cứ ai đối diện với
hiểm nguy, họ nên tŕ niệm danh hiệu và nương tựa vào Bồ Tát Quán
Thế Âm. Khi Bồ Tát nghe được tiếng kêu, người đó sẽ được giải thoát.
Bồ Tát c̣n được gọi là Quán Thế Niên hay Quán Tự Tại” (19). Một điểm đáng
lưu ư là ngài Cưu Ma La Thập đă biết đến danh hiệu Quán Tự Tại, tuy
nhiên trong bản dịch kinh Pháp Hoa đă không hề sử dụng đến danh hiệu
này. Đại sư Cát Tạng (549-629), người sáng lập Tam Luận Tôn khi chú
giải về kinh Diệu Pháp Liên Hoa đă đưa ra lời giải thích về danh
hiệu Quán Thế Âm như sau: “Quán
là trí tuệ có khả năng xem xét nhận biết và Thế Âm là cảnh giới được
nhận biết. Khi cảnh giới và trí tuệ nhập làm một, ta có danh hiệu
Quán Thế Âm” (20). Ngài đồng thời cũng lập lại lời giảng của ngài Pháp
Vân (467-529) trước đây khi chú giải về kinh Diệu Pháp Liên Hoa đă
lư giải danh hiệu của Bồ Tát qua bốn điểm: “Quán Thế Âm có thể được hiểu theo bốn ư nghĩa.
Trước tiên là Quán Thế Âm, có nghĩa là Ngài giải thoát khỏi khổ nạn
khi quán xét tiếng kêu cầu của thế gian. Thứ hai là Quán Thế Thân có
nghĩa là Ngài giải thoát khi quán xét thân nghiệp của chúng sanh.
Thứ ba là Quán Thế Ư có nghĩa là Ngài giải thoát khi quán xét ư
nghiệp của chúng sanh. Thứ tư là Quán Thế Nghiệp, bao gồm tất cả ba
danh hiệu trên. Nếu bạn hỏi tôi tại sao chỉ dùng có mỗi danh hiệu
Quán Thế Âm, thưa bạn, tạo khẩu nghiệp là điều quá dễ dàng nhưng
thực hành các hạnh lành bằng thân và ư là điều khó. Hơn thế nữa,
trong cơi Ta Bà này, chúng ta kính ngưỡng Đức Bổn Sư bằng âm thanh
tiếng nói của ḿnh. Đó là lư do tại sao Quán Thế Âm trở thành danh
hiệu chính thức.” (21).
Quán Vô Lượng Thọ Phật
Kinh được coi như là một trong ba bộ kinh cốt tủy của tông phái Tịnh
Độ (cùng với Phật Thuyết Vô Lượng Thọ
Kinh –c̣n gọi là Đại Kinh, Phật Thuyết A Di Đà kinh-c̣n gọi là Tiểu
Kinh). Một trong những bản dịch của bộ kinh này từ lâu được coi như
là do ngài Cương Lương Da Xá (ca. 424-453), một tăng sĩ người vùng
Trung Á, dịch vào năm 430. Tuy nhiên đây là vấn đề mà các học giả
đương đại đang c̣n nêu lên nghi vấn. Trước tiên người ta thấy tên
tuổi của ngài Cương Lương Da Xá đă không được liệt kê trong bộ danh
mục Xuất Tam Tạng Kư Tập, kết tập bởi Tăng Hữu (445-518) vào
năm 515. Trong cuốn mục lục này Tăng Hữu đă ghi tác giả của bộ kinh
này là khuyết danh. Một học giả nghiên cứu chuyên sâu về đề tài này,
Sueki Fumihito (22) cho biết là đă có rất nhiều ư kiến liên quan đến
nguồn gốc của bộ kinh. Mặc dù nhiều học giả tin rằng bộ kinh này
được kết tập tại Ấn Độ (23), nhưng một số
khác lại tin rằng nó được kết tập tại Trung Á (24), chưa kể là những
người khác cho là tại Trung Quốc (25).
Gần đây nhất, đa số các
học giả đă có khuynh hướng đồng ư rằng bộ kinh này là một thành phẩm
của nhiều giai đoạn. Mặc dù bộ kinh được h́nh thành sơ khởi tại vùng
Trung Á, cụ thể là Qoco (Kao Ch’ang) xứ Turfan, nhưng sau đó đă được
kết tập với những thêm thắt mới tại Trung Quốc (26). Bộ kinh này đă
nêu ra mười sáu chủ đề liên quan về Quán. Chủ đề thứ mười đặc
biệt liên quan đến Quán Thân Tướng Đức Quán Thế Âm (Quán Thế Âm
Quán). Trong phẩm kinh này đă hướng dẫn hành giả quán tưởng về
thân tướng của Bồ Tát với rất nhiều chi tiết tỉ mỉ khiến một số học
giả cho rằng nó đă được dựa vào một h́nh mẫu sẵn có (27). Chi tiết miêu tả
về h́nh tượng, đặc biệt nơi thiên quang giữa đỉnh đầu có một vị hoá
Phật – thông thường là Phật A Di Đà- có thể được xem như là một kiểu
mẩu cho các nghệ nhân sau này dùng để phân biệt Bồ Tát cùng với
những vị khác. Biểu tượng ánh sáng của Bồ Tát được đề cập đến
trong kinh Pháp Hoa càng được miêu tả đậm nét hơn trong bộ kinh này:
“Trong thân quang của Bồ Tát hiện tất
cả sắc tướng của ngũ đạo chúng sanh. Bồ Tát đầu đội thiên quang bằng
chất báu Tỳ Lăng Già Ma ni. Nơi thiên quang có một vị Hoá Phật đứng,
cao hai mươi lăm do tuần” (28). (Bản Việt dịch,
Ḥa Thượng Thích Thiền Tâm).
Bộ kinh này có mối liên
hệ rất gần gũi với năm bộ kinh cùng có chủ đề quán tưởng xuất phát
từ vùng Trung Á –có thể là Turfan- được dịch sang Hán Văn vào khoảng
cuối thế kỷ thứ tư và giữ thế kỷ thứ năm (29). Nội dung của cả
năm cuốn kinh này đều chỉ cho hành giả cách thức thiền quán như thế
nào để có thể tạo ra h́nh ảnh của Phật hay Bồ Tát bằng nỗ lực tập
trung tư tưởng là chủ yếu chứ không cần phải nhờ đến một thần lực
bên ngoài. Khi thiền giả thấy được h́nh ảnh của Tam Thánh cũng có
nghĩa là họ đă được cứu độ. Hành giả cũng được cho biết là trước giờ
lâm tử, Phật A Di Đà cùng với Bồ Tát Quán Âm và Thế Chí sẽ hiện ra
tiếp dẫn họ về cơi Tây Phương Tịnh Độ. Quán trong trường hợp này
v́ thế mang ư nghĩa quán tưởng chứ không phải là quan sát, nhận biết
hay xem xét.
Một bộ kinh khác, Thủ
Lăng Nghiêm, theo truyền thống người ta tin là do ngài Bát Thích Mật
Đế (Paramiti) dịch ra Hán văn vào năm 705. Tuy nhiên vấn đề này nay
vẫn c̣n là một nghi vấn v́ một số các nhà học giả đương đại cho là
bộ kinh này đă được kết tập tại Trung Quốc (30). Trong kinh Lăng
Nghiêm, Bồ Tát đă được gọi bằng danh hiệu Quán Thế Âm hay Quán Âm,
tuy nhiên danh hiệu này đă được lư giải một cách khác biệt. Đây là
cách giải thích thứ ba về ư nghĩa của danh hiệu Quán Âm. Trong bộ
Kinh này, Bồ Tát bắt đầu bằng cách cho đại chúng biết ngài đă đạt
được thiền định tam muội là do nhờ quán chiếu về tánh nghe, dưới sự
chỉ dạy bởi bổn sư của Ngài là một vị Phật cũng mang danh hiệu là
Quán Thế Âm:
Ban đầu, ở trong tính-nghe,
vào được ḍng viên-thông, không c̣n tướng sở-văn nữa. Trần-tướng đă
vẳng-lặng, hai tướng động, tĩnh rơ thật không sinh. Như vậy thêm
lần, các tướng năng-văn, sở-văn đều hết. Không dừng lại nơi chỗ dứt
hết năng-văn, sở-văn mà tiến lên nữa, th́ năng-giác, sở-giác, đều
không. Không-giác tột bậc viên-măn, các tướng năng-không, sở-không
đều diệt. Sinh-diệt đă diệt, th́ bản-tính tịch-diệt
hiện-tiền. (31)
Cái tiếng được nói đến
trong kinh Lăng Nghiêm không phải là tiếng kêu cầu danh hiệu Bồ Tát
của những tín đồ tŕ tụng mà là bất cứ thanh âm nào, khi ta quán
tưởng sâu xa vào thực chất của chúng đều dẫn đến thực chứng Tánh
Không. Mặc dù cuốn kinh đề cập đến năng lực cứu vớt chúng sanh ra
khỏi nhiều khổ nạn cùng với mười bốn pháp thí vô úy của Bồ Tát,
nhưng nguyên do của việc làm này th́ lại khác biệt với kinh Diệu
Pháp Liên Hoa: “Ta không tự quán cái tiếng, mà quán cái tâm
năng-quán, nên khiến cho chúng-sinh khổ-năo thập phương kia, quán
cái âm-thanh, th́ liền được giải-thoát.”. (Luk 1966:139 -bản
Việt dịch Tâm Minh Lê Đ́nh Thám) (32). Bồ Tát một lần
nữa đi đến kết luận bằng cách liên hệ danh hiệu của ḿnh với sự
thiền quán về tánh nghe: “Bạch Thế-tôn, đức Phật Như-lai kia,
khen tôi khéo được pháp-môn viên-thông, ở trong Đại-hội, thụ-kư cho
tôi cái hiệu là Quán-Thế-Âm; do tôi thấy-nghe thấu-suốt mười phương,
nên danh-tiếng Quán-Âm cùng khắp thập phương thế-giới".”
(33) (bản Việt dịch Tâm Minh Lê Đ́nh Thám). Trong kinh
Thủ Lăng Nghiêm, Quán như thế không có nghĩa là xem xét hay
lắng nghe tiếng kêu cầu giúp đỡ của những người tín ngương vào Ngài,
cũng không phải là quán tưởng về thân tướng của Bồ Tát mà là đi sâu
vào bản tánh của thanh âm để thực chứng rằng chúng hoàn toàn trống
rỗng.
Bây giờ chúng ta tiếp tục khảo
sát về sự xuất hiện danh hiệu của Bồ Tát theo thứ tự niên đại. Ngài
Bồ Đề Lưu Chi trong bản dịch Pháp Hoa Kinh Luận năm 508 đă
tổng hợp hai danh hiệu của Bồ Tát và gọi là Quán Thế Tự Tại. Danh
hiệu Quán Tự Tại được chính thức dùng lần đầu tiên trong bản
dịch Đại Bát Nhă Ba La Mật Đa Kinh, năm 663, của Ngài
Huyền Trang, cũng như trong bản dịch Hoa Nghiêm 80 phẩm
của ngài Thực Xoa Nan Đà, năm 695-699 (khác với bản dịch 60 phẩm của
ngài Giác Hiền vào năm 420 trong đó Bồ Tát được gọi là Quán Thế Âm).
Khuy Cơ (632-682), đại đệ tử của ngài Huyền Trang trong bộ luận
Bát Nhă Tâm Kinh U Tán đă giải thích ư nghĩa của danh hiệu
Quán Tự Tại và đứng trên quan điểm của thầy ḿnh, phê phán những
người sử dụng danh hiệu Quán Thế Âm là sai lầm:
Bồ Tát đắc quả vị hiện
tại v́ đă thực hành lục độ ba la mật trong quá khứ. Bởi Bồ Tát quán
xét thâm sâu vạn pháp bằng trí tuệ bát nhă thế nên Ngài đă đạt đến
mười cảnh giới tự tại. Thứ nhất Ngài đă làm chủ được sinh tử v́ có
thể kéo dài hay rút ngắn thọ mạng tùy ư. Thứ hai Ngài đă làm chủ
được tâm v́ không c̣n vướng bận trong ṿng sinh tử. Thứ ba Ngài làm
chủ được giàu sang v́ có thể biến hiện ra của cải theo ư muốn đó là
kết quả của việc thực hành hạnh bố thí ba la mật trong quá
khứ. Thứ tư Ngài làm chủ được nghiệp quả v́ Bồ tát luôn luôn làm các
hạnh lành và khuyến khích mọi người cũng làm theo như thế. Thứ năm
Ngài làm chủ được đời sống hiện tại đi đến bất cứ nơi đâu thong dong
tự tại, do kết quả cuả việc thực hành hạnh tŕ giới ba la mật. Thứ
sáu Ngài làm chủ được kiến thức siêu việt để có thể ứng hiện tùy
duyên do kết quả của việc thực hành hạnh nhẫn nhục ba la mật. Thứ
bảy, Ngài là chủ của các hạnh nguyện từ đó có thể mang hạnh phúc đến
bất cứ nơi đâu mà Ngài quán chiếu do kết quả của thực hành tinh tấn
ba la mật. Thứ tám, Ngài là chủ tể của quyền lực siêu nhiên với năng
lực siêu phàm không thể nghĩ bàn kết quả của thiền định ba la mật.
Thứ chín Ngài là chủ của nguồn tuệ giác do nương vào tiếng nói, âm
thanh mà đạt đến trí tuệ viên măn. Thứ mười, Ngài là một vị Pháp
chủ v́ những hiểu biết của Ngài luôn luôn đúng theo kinh điển
và đây là kết quả của việc thực hành trí tuệ ba la mật. Ngài tuy là
vị Bồ Tát nhất sanh bổ xứ nhưng đă trải qua quá tŕnh thực chứng rốt
ráo như một vị Phật. Không có bất cứ nơi chốn tối tăm nào mà hào
quang của Ngài không thể chiếu rọi tới. Do đó mà Ngài có danh hiệu
là Quán Tự Tại. Nếu ai gọi Ngài là Quán Âm đều sai lạc cả chữ lẫn
nghĩa. (34)
Nhưng dù thế nào đi nữa,
mặc cho những phê phán của cả ngài Huyền Trang lẫn Khuy Cơ, người ta
vẫn thích gọi Bồ Tát là Quán Thế Âm hay Quán Âm. Đồng thời cũng
không có một chứng cớ nào xác minh rằng sự phiên dịch danh hiệu này
của những dịch bản trước đây là lầm lẫn. Thế th́ tại sao các dịch
giả kinh điển đă cho vị Bồ Tát này mang hai danh hiệu khác nhau?
Thực ra sở dĩ có những danh hiệu khác biệt bằng tiếng Trung Hoa là
do tên của Bồ Tát đă được dịch ra từ hai từ ngữ phát âm khác nhau.
Quán Thế Âm được dịch từ chữ Avalokitasvara trong khi
Quán Tự Tại là phiên âm của chữ Avalokitesvara. Pháp Vân,
người kết tập một cuốn từ điển thuật ngữ Phật giáo, Phiên Dịch Danh
Nghĩa Tập, đă giải thích rằng hai danh hiệu này là kết quả của hai
bản kinh có nguồn gốc khác nhau được mang vào Trung quốc
(35). Trong một
bài tham luận liên quan đến vấn đề này xuất bản vào năm 1927, học
giả Mironov đă xác nhận những nhận định của ngài Pháp Vân đưa ra từ
thế kỷ thứ năm là đúng đắn. Sau khi khảo sát những mảnh thủ bản Phạn
ngữ của kinh Diệu Pháp Liên Hoa do Otani khám phá tại Đông bộ
Turkestan hoặc Tân Cương, ông viết: “Một trong ba bộ của các mảnh
thủ bản do căn cứ vào cấu trúc ngữ pháp của thời cổ có thể được xác
định niên đại vào khoảng cuối thế kỷ thứ năm, ông đă t́m thấy ba
mảnh của phẩm thứ hai mươi bốn tuyên xưng Bồ Tát Avalokitesvara. Bởi
v́ chỉ trên một mảnh lá nhỏ mà danh hiệu của Bồ Tát được viết là
Avalokitasvara đến 5 lần, ta khó có thể tin rằng đây là chuyện
nhầm lẫn trong khi ghi chép. Như vậy, có vẻ như người ta đă t́m ra
cái khâu chính trong vấn đề không ăn khớp giữa hai truyền thống Ấn
Độ và Trung Hoa. Không c̣n hoài nghi ǵ nữa, Avalokitasvara là danh hiệu
nguyên thủy của Bồ Tát và rồi sau này đă được thay thế bằng
Avalokitesvara.” (36)
Căn cứ trên khám phá này, học giả Hậu Đằng Đại
Dụng đă nêu giả thuyết rằng danh hiệu Avalokitasvara đă được dùng
trong các kinh điển mang vào Trung quốc có xuất xứ từ Kucha như các
bộ kinh mà ngài Cưu Ma La Thập và các nhà truyền giáo vùng Trung Á
đă dịch ra Hán văn, trong khi đó danh hiệu Avalokitesvara được t́m
thấy trong nguồn kinh điển gốc gác từ Ấn Độ do ngài Huyền Trang mang
về trong chuyến Tây du thỉnh kinh nổi tiếng của Ngài. (37)
Những nhà dịch giả kinh điển
Hán văn như thế đă tiếp cận danh hiệu Bồ Tát đến từ hai nguồn khác
nhau. Và rồi một điều khá lư thú là cho dù bị chống đối mạnh mẽ bởi
ngài Huyền Trang, danh hiệu Quán Âm hay Quán Thế Âm đă trở thành phổ
cập cả trong vùng Tây Á. Những nhà chú giải, như được đề cập trước
đây cũng đă đưa ra những lời giải thích hoàn toàn tán đồng về ư
nghĩa “âm thanh” như là một phần nội dung chính trong danh hiệu của
Bồ Tát Quán Thế Âm.
(*) GHI CHÚ: Đây
là một phần trong bản dịch Chương I cuốn "Bồ Tát Quán Thế Âm" của
GS/TS Chun Fang Vu, một học giả có uy tín của Hoa Kỳ về Trung Hoa
Học, đương kim Khoa Trưởng phân khoa Triết học và Tôn giáo của Đại
Học State of New Jersey, HK. Lẽ ra phần này nên được đưa vào phần
Phu Lục như là một tài liệu để độc giả tham khảo thêm, nhưng do tính
chất nhất quán của cuốn sách, nhằm giới thiệu hành trạng, danh hiệu
của Bồ Tát Quán Thế Âm phần này đă được đưa vào đây để độc giả tiện
theo dơi. Trân trọng cảm ơn GSTS Chun Fang Yu cùng độc giả.
  
[ML] [CH1] [CH2] [2.1]
[2.2] [2.3] [2.4] [2.5]
[CH3] [BAT] [CT] [PHULUC] [STK]
|